Sự dịch chuyển của văn hóa làng
23/08/2025 Bình luận về bài viết này
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định tầm quan trọng của văn hóa làng trong tổng thể nền văn hóa đất nước, nên có lẽ tôi không cần phải bàn thêm. Tuy nhiên, theo tốc độ đô thị hóa của đất nước làng vẫn cứ dần bị mai một. Đây là một vấn đề rất thực tế của thời đại.
Làng là đơn vị quản lý cấp cơ sở nhỏ nhất của Việt Nam ngày xưa. Trong làng người ta biết hết nhau hết như ông nào bị hen, bà nào thơm thảo, ông nào bị trĩ, bà nào thớ lợ… Anh nào tăm tia chị nào. Hôm nay có đám nhà ai, nên sáng ra ông bà nào mặc đẹp (lên đồ) thì người ta biết tỏng là đi đâu rồi. Hỏi cho có lệ vậy thôi, thay cho lời chào.
Những biến động chung của đất nước ở nhiều thời kỳ về các mặt như: chiến tranh, chính trị, kinh tế, thiên tai, dịch bệnh… dẫn đến có nhiều hình thức hình thành làng khác nhau. Có thể là một vị tướng sau chiến tranh đóng lại ở một vùng ven sông, vùng trù phú… Một vài gia đình di cư từ vùng này sang vùng khác ở gần nhau thành cụm.
Người có công lớn nhất với làng như lập ra làng hay giữ được làng trước giặc dã, thiên tai, thú dữ thường được tôn làm thành hoàng làng và có đền thờ. Làng thường phát triển theo hai hướng từ lõi ra hoặc từ cổng làng về phía sau, với những người mới đến sau (dân ngụ cư) sẽ khai hoang đất mới rồi ở rìa làng (xóm ngụ cư).
Ngày nay cộng đồng làng đã và đang dần chuyển thành các hình thức cộng đồng khác nhau ở đô thị như: tổ dân phố, khu dân cư, xóm trọ, tầng chung cư… Tất nhiên không thể giống được hoàn toàn. Cũng không biết nhau được nhiều nhưng cũng đủ gọi là không khó hiểu, thậm chí không phải đề phòng.
Làng là âm gốc tiếng Việt cổ, tức là một trong 40% âm (lời) không mượn từ tiếng Hán. Do đó không có chữ tương đương tiếng Trung các phương ngữ ở vùng Lưỡng Quảng. Có hai chữ của họ nghĩa gần là “hương” và “thôn”. Hai chữ này ta đều đã mượn cả. Làng là “mường” trong tiếng của các dân tộc gần gũi với người Kinh.




