Lực lượng thứ ba giờ ở đâu?
12/07/2025 Bình luận về bài viết này
Nếu không tiếp nhận thông tin đa chiều thì ngay cả người cùng thời đại cũng không biết rằng, Việt Nam từng tồn tại lực lượng thứ ba. Do đó, hẳn nhiên bây giờ rất nhiều bạn trẻ không biết đất nước từng tồn tại một lực lượng như thế. Đó là những người không Quốc, không Cộng, thiện tâm và hài hòa, mong muốn đất nước hòa giải dân tộc và đa nguyên để phát triển.
Trước năm 1975 lực lượng này hiện diện vai trò mạnh nhất với mong muốn ngây thơ rằng, Việt Nam sẽ thống nhất, hòa giải dân tộc và đa nguyên như năm 1946. Nhưng sự phát triển thịnh của cộng sản quốc tế khi đó, tất nhiên cộng sản Việt Nam không chấp nhận đa nguyên, cũng như sự tồn tại công khai của lực lượng này. Người ta chê cười sự ngây thơ.
Thế rồi từ năm 1976 cho đến năm 2011, sau thế hệ khai quốc thì lần lượt con em của các chiến sĩ và nông dân nắm quyền. Cho đến trước đổi mới năm 1986, đất nước vẫn còn chưa yên vì tướng tá thắng cuộc về triều và chiến tranh biên giới. Đến năm 1987, khi ông NVL nắm quyền mọi thứ mới tương đối sáng sủa hơn. Trước đó, nhiều thứ trong xã hội đã tới giới hạn của sự tệ hại, đã quá sức chịu đựng.
Rất tiếc, 10 năm sau ông NVL (1991-2011), đất nước bị nắm quyền bởi những người không có năng lực xuất chúng nên không quyền biến để phát triển. Những người có con đường quan lộ quá dễ dàng, thế hệ trước dẫn dắt và thử thách thế hệ sau không đủ khốc liệt thì cơ bản là yếu kém rồi sai lầm. Làm ăn kinh tế cũng như đánh trận, có thua có thắng, nhưng nguyên tắc tổ chức và vận hành sai thì rất khó.
Thế rồi năm 2011, một người trí thức và kỹ trị như ông Giáo mới nắm được quyền lực. Trước đó là cuộc đấu đá dữ dội và khốc liệt với hậu duệ của con em chiến sĩ và nông dân. Ông Giáo là điển hình của người mà các cụ ngày xưa gọi là: cá chép hóa rồng, mèo già hóa cáo, sống lâu lên lão làng… Thật kỳ diệu khi ông tồn tại và phát triển trong hệ thống nhưng vẫn giữ được những phẩm chất của sự tử tế.
Và thế là chiến dịch “đốt lò” ra đời. Thực sự, trước khi đốt lò tình trạng của đất nước Việt Nam là hết sức tệ hại. Có thể nói là mục ruỗng và hoại tử. Thiên hạ vô đạo, tiểu nhân đắc ý, sĩ phu ngoảnh mặt… Cán bộ cấp trung Việt Nam thời đó, nhìn nhân tướng nhiều bố như mấy ông xe ôm, xích lô. Bởi kẻ bất tài chỉ tuyển những thằng ngu hơn mình vào hệ thống. Ngu thì mới bất chấp đạo đức mà làm việc xấu không ghê tay.
Rồi ông Giáo sau khi chọn ba người kế nhiệm (TQV, VĐH, VVT) không thành công vì khả năng là các đồng chí ấy hoặc là không được lòng TW hoặc tay đã nhúng chàm, rồi ông Giáo lại ngã ngựa giữa đường, nên bất đắc dĩ quyền lực để lại cho CCA. Thôi thì tư lệnh ngành lên làm nguyên thủ. Ban đầu có thể bỡ ngỡ về lý luận, đối nội và đối ngoại nhưng vì đã có thâm niên, tuổi đời và nghiệp vụ nên mọi thứ về cơ bản ổn định.
CCA không những đẩy mạnh công cuộc “đốt lò” mà còn mạnh tay chống lãng phí, sáp nhập địa phương và tinh giản bộ máy. Đây không phải là những việc mà người thường có thể làm được. Thậm chí lại còn làm được rất nhanh, chỉ vài tháng là xong. Nhân dân rất hả hê khi chứng kiến những cán bộ trước đây “hành” mình bị đào thải, mất chức về làm dân thường. Rất nhiều kẻ không làm được người bình thường tử tế, chưa nói được làm cán bộ.
Vậy lực lượng thứ ba ở đâu? Xin thưa, ông Giáo và CCA đang gần lực lượng thứ ba nhất. Bất kỳ cá nhân và tổ chức nào có mục tiêu hành động vì nhân dân và đất nước đều gần gũi với lực lượng thứ ba. Bởi con cháu của chiến sĩ và nông dân sẽ chỉ quan tâm đến sự tồn vong của chế độ, bất chấp đất nước nghèo nàn lạc hậu ra sao, nhân dân đói khổ thế nào. Những người dễ dàng thành công, quen với cuộc sống hào môn phồn hoa không có năng lực thấu cảm.
Lực lượng thứ ba luôn tồn tại song song với chính quyền ở các thời đại. Họ ẩn thân vào chính trường và thương trường, họ thỏa hiệp với mình, với thời cuộc để làm chính khách hạng xoàng, doanh nhân thực dụng… Họ hiểu để hành đạo, để phổ cập triết lý và tư tưởng của mình thì trước tiên phải “sống được” trước đã. An nhiên nhưng tâm tư họ luôn trăn trở, luôn đau đáu vì tổ quốc do ông cha để lại, vì đời sống của bách tính nhân dân. Thực tế là thước đo chân lý.
Lịch sử cho bài học là, quyền lực tuyệt đối bao giờ cũng sinh ra sự tha hóa tuyệt đối. Khi anh có toàn bộ quyền lực, theo thời gian anh chắc chắn sẽ hư hỏng, theo cách này hay cách khác. Một chính quyền không có lực lượng đối kháng đủ mạnh, không có phản biện đủ sắc sảo, không có phản tỉnh đủ sức nặng thì sẽ rất dễ lạc lối. Khi anh không có năng lực thấu cảm thì dù có quyết liệt đến đâu việc cũng hỏng. Bởi anh không có lòng người.
Quan sát chính trường cổ kim đông tây ta thấy, những nguyên thủ và hệ thống có thực tài không bao giờ họ sợ những lời nghịch nhĩ, trái tai. Bởi người với người suy nghĩ khác nhau, quan điểm khác nhau là bình thường. Người tài giỏi lại “vì dân, vì nước” thì làm sao phải sợ những tiếng nói khác. Khi anh vì dân vì nước thì những tiếng nói khác anh đều là nói láo. Kẻ nói láo thì làm sao phải sợ. Cứ để cho chúng nói, nhân dân luôn biết điều gì tốt cho mình.
Lực lượng thứ ba ở Việt Nam cũng giống như nhân vật Tư Mã Ý trong thời đại Tam quốc phân tranh, luôn ẩn nhẫn trong chính quyền. Khi họ Tào còn mạnh mẽ và sáng suốt thì tất nhiên phải ẩn thân và an hưởng thú đời. Đến khi nhà Tào kém cỏi và bạc nhược thì tuốt một gươm đoạt lấy thiên hạ. Một đường gươm chém ra nhưng thanh gươm đó đã được mài trong 25 năm. Lực lượng thứ ba sẽ là tương lai của đất nước trong 50 năm hay 100 năm nữa. Tổ quốc muôn năm.




