Nội hàm là gì?

Tiếng Việt hiện nay chưa có sự thống nhất trong việc gọi một từ là gì? Ví dụ từ “lí luận” – đây là một từ ghép gồm hai từ đơn “lí” và “luận”. Đây là một “từ” hay một “khái niệm”? Chúng ta thường dùng từ khái niệm khi mô tả về một từ chỉ những đối tượng trừu tượng, khó hiểu, phi vật chất…. Nghĩa của từ “lí luận” tôi tạm giải nghĩa là: 1. Danh từ: là hệ thống tri thức thuộc về phần lí thuyết và 2. Động từ: là dùng những luận điểm có luận cứ và luận chứng (*) bảo vệ để giải thích về một vấn đề.

1. Cái bát và cái bát tô
Để làm rõ sự khác nhau của các từ “nghĩa”, “nội hàm” và “khái niệm” thì tôi cần phải lấy một ví dụ về một số từ cụ thể, làm như thế những người bình thường (không phải là chuyên gia ngôn ngữ) mới dễ hình dung hơn. Hai từ tôi lấy ví dụ là: 1. “Cái bát” và 2. “Cái bát tô” – hai vật dụng rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam. “Cái bát” – khi nói không thế này – thì ở miền bắc Việt Nam hiểu là “cái bát con”, thường dùng để ăn cơm.

“Cái bát con” là một vật dụng được các lò gốm sứ nặn từ đất, tráng men rồi nung nóng ở nhiệt độ cao cho cứng chắc, bền và đẹp. Mọi người mua về thường là dùng để dùng bữa, xới cơm vào đó rồi ăn cơm. Khi ăn, người Việt Nam thường dùng cái bát con với một đồ dùng khác là đôi đũa hoặc cái thìa với trẻ con. Người Việt Nam dùng đũa rất khéo, dùng nhiều nên quen… Dùng đũa sử dụng nhiều các ngón tay, tăng cường trí thông minh.

“Cái bát tô” là cái bát có hình như cái bát con, nhưng được làm to hơn, bát tô thường dùng để đựng canh – một loại thức ăn có nhiều nước. Bát canh thường được bày lên mâm để mọi người cùng ăn chung. Khi ăn canh, ở bát tô canh thường có một cái muôi để mọi người múc canh vào bát con của mình, nếu bát có cơm thì là ăn cơm trộn canh, nếu bát không có cơm thì là uống nước canh. Chỉ nên uống nước canh cuối bữa ăn, không nên ăn cơm chan canh.

Vậy thì khi ta nói từ ghép “cái bát tô” với ai đó, hoặc giải nghĩa từ này cho ai đó, chúng ta không cần phải giải nghĩa lại phần định nghĩa về cái bát (con), tức là đoạn “là một vật dụng được các lò gốm nặn từ đất, tráng men rồi nung nóng…”. Với điều kiện là người đối thoại đã hiểu nghĩa của từ “cái bát” rồi. Tất nhiên, khi chưa biết “cái bát” là gì, thì sẽ không có ai hỏi “cái bát tô” là gì. Bởi nó là cái bát được làm to hơn thôi.

2. Từ gốc và từ phái sinh
Vậy bây giờ thì có đến năm từ chứ không phải bốn, đó là các từ: “nghĩa”, “nội hàm”, “ngoại diên”, “khái niệm” và “định nghĩa”. Tôi xin lần lượt giải nghĩa các từ này như sau: ở từ “cái bát” thì phần giải nghĩa cái bát “là một vật dụng được các lò gốm nặn từ đất…” đó là tôi đang định nghĩa – xác định cái nghĩa – cái bát. Một vật dụng rất gần gũi với đời sống con người. Cái bát có thể nhìn thấy, cầm nắm và định lượng được nên tôi có thể định nghĩa được cho âm (nói ra miệng) và từ (viết trên giấy) mô tả nó.

Tức là âm cái bát ta nói ra miệng, từ “cái bát” ta viết trên giấy và cái bát ngoài thực tế là ba đối tượng khác nhau. Từ cái bát là từ gốc, từ “cái bát tô” là từ phái sinh. Từ phái sinh cần có cả nội hàm và ngoại diên. Trong đó “cái bát” là nội hàm và “to” (hay tô) là ngoại diên – cái bát to là cái bát được làm lớn hơn cái bát con. Từ “cái bát to” mượn nội hàm – nghĩa – của từ “cái bát”. Tức những từ gốc – như từ “cái bát” – chỉ có nghĩa, cũng chính là nội hàm, chứ không có ngoại diên. Những từ phái sinh – từ những từ gốc – mới có nội hàm và ngoại diên.

Khái niệm là đại khái quan niệm về những sự vật mông lung, trừu tượng, vô hình, phi vật thể như đường thẳng, mặt phẳng, lí luận, triết lí, tình yêu, niềm tin, ý chí, lý tưởng… Bởi vì các sự vật này trừu tượng nên chúng ta không “định nghĩa” được một cách chính xác. Như khái niệm đường thẳng ta thường mô tả cho học sinh dễ hiểu được là: một cái dây phơi kéo căng có hai đầu kéo dài vô tận về hai phía. Khi khái niệm được về đường thẳng ta có thể định nghĩa được đoạn thẳng. Cụ thể: đoạn thẳng là đường thẳng nối hai điểm.

Vậy những từ gốc có “nghĩa” cũng chính là nội hàm, những từ phái sinh mới có nội hàm và ngoại diên. Tức một từ gốc không có ngoại diên. Và một “từ” không phải là một “khái niệm”, càng không phải là một “định nghĩa”. Từ mô tả những thứ hữu hình, cụ thể thì ta có thể “định nghĩa” tứ đó được, từ mô tả những thứ vô hình, trừu tượng, phi vật thể, khó hiểu thì ta không “định nghĩa” được, ta chỉ “khái niệm” – tức đại khái quan niệm – là như thế.

3. Định nghĩa và khái niệm
Cái bát là một vật dụng trong đời sống con người, nhìn chung những vật dụng cụ thể, hữu hình trong đời sống xã hội đều có thể định nghĩa được. Đó là những vật thể như cái bát, cái thìa, cái bàn, cái ghế, viên bi, quả tạ… Cái bát được làm từ đất sét. Đất lại là sự vật mà ta không định nghĩa được, ta chỉ có thể khái niệm về đất sét. Tất nhiên, bát có thể được làm từ gỗ, kim loại, thủy tinh và nhựa nhưng đó không phải là góc độ bài viết này đề cập tới. Với cách diễn giải trên ta thấy, định nghĩa và khái niệm là hai động thái để làm rõ nghĩa của các từ ngữ.

Định nghĩa là để làm rõ nghĩa cho những từ chỉ những vật dụng gần gũi với đời sống con người, đó là những vật thể tồn tại hữu hình, cụ thể, tách biệt với các đối tượng khác. Khái niệm là để giải nghĩa những từ mô tả những sự vật to lớn, vĩ đại trên bình diện trái đất hoặc vũ trụ mà con người chưa hiểu hết được như nước trên trái đất và cả trong vũ trụ, rồi đất, sắt, kim loại nói chung, mở rộng ra nhất là toàn bộ vật chất nói chung trong vũ trụ. Rồi còn sâu hơn nữa là những thuật ngữ chuyên ngành vật lý như: phản vật chất, vật chất tối và năng lượng tối. Ngoài ra, khái niệm còn để làm rõ nghĩa cho những từ chỉ các đối tượng vô hình như: đường thẳng, mặt phẳng, tình yêu, chân lý, ý chí, niềm tin…

Nếu định nghĩa và khái niệm là tương đương, thì từ nghĩa và từ niệm có chức năng tương đương. Để hiểu nghĩa của âm hay từ cái bát, thì một người cần được nhìn thấy, cầm lấy và sử dụng cái bát. Khi đó người đó nghe thấy ai đó nói từ “cái bát” ra miệng hay viết từ “cái bát” lên giấy thì người ta đều hiểu được nghĩa của âm và của từ cái bát. Từ “nghĩa” mô tả những vật thể gần gũi nên dễ hiểu hơn từ “niệm”, vốn mô tả những sự vật xa xôi hay những đối tượng vô hình hay trừu tượng, ví dụ: nước trên trái đất, thời gian, lí luận, ý chí, niềm tin, lí tưởng… Đôi khi chúng ta còn lầm lẫn trong vấn đề này.

Đôi khi, để giải về một sự vật hay một khái niệm trừu tượng ta phải diễn tả rất nhiều thứ. Ví dụ ta thử giải nghĩa về sự vật nước (thủy), nước có thể gần gũi trong đời sống con người như giọt nước mắt, nước trong cốc, trong chai lọ, chum bể nhưng nước có thể rất rộng lớn và xa xôi như nước trong ao hồ, sông biển, đại dương, thậm chí là nước trong vũ trụ. Cho nên ta chỉ khái niệm về nước, chứ không định nghĩa được loại vật chất này. Tương tự với đó là sắt, kim loại nói chung, thời gian, tình yêu, niềm tin, lí tưởng… Toàn bộ những vấn đề khi ta khái niệm một từ trên giấy, đúng hơn là mô tả sự vật là chủ thể của từ ấy trong cuộc sống, là nội hàm của từ ấy.

Ví dụ: nội hàm của khái niệm nước là toàn bộ sự mô tả về nước trong cốc, trong bình, trong chum, trong bể, trong ao hồ và ngoài đại dương. Bởi vì như đã nói bên trên, âm nước ta nói ra miệng, từ nước ta viết trên giấy và sự vật nước ngoài thực tế cuộc sống là ba thực thể khác nhau. Và từ “phạm trù” là từ hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ nội hàm. Ví dụ, khi ta muốn nói nội hàm của từ kim loại nói chung thì ta dùng từ phạm trù. Vì kim loại bao gồm sắt, thép, vàng, bạc, nhôm, đồng, chì, thiếc… Tương tự với đó là từ vật chất thế giới còn rộng hơn kim loại rất nhiều.

——-
Chú thích:

(*): Luận cứ: là những điều đúng đắn đã được xác thực qua thực tế hoặc đã được xã hội công nhận. Những điều đúng đắn đó là những chân lý hay các quy luật của tự nhiên và xã hội, những câu nói là kinh nghiệm được ông cha đúc kết từ xưa như: tục ngữ, ca dao, danh ngôn, cách ngôn, ngạn ngữ… Luận chứng: là những bằng chứng đã được xác thực là đáng tin cậy như: hình ảnh, ghi âm, video, vật chứng, số liệu thống kê, kết quả của các công trình nghiên cứu…

Hình đại diện của Không hiểuGiới thiệu Thành
Người kể chuyện

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.