Tại sao không cần cải cách chữ Quốc Ngữ?
14/04/2020 Bình luận về bài viết này
Tiếng Việt (phần âm) là ngôn ngữ được sáng tạo ra bởi ông cha ta khi sinh sống trên tổ quốc ta, nên tiếng Việt là duy nhất trên thế giới. Hiện nay chúng ta đang dùng chữ Quốc Ngữ, một loại chữ viết thuộc hệ kỹ tự Latin, để ghi âm tiếng Việt lên giấy hoặc các thiết bị lưu trữ. Cách viết của chữ Quốc Ngữ là sử dụng 40 chữ cái để ghi âm (mã hóa) các đơn vị âm cơ bản.
Trong 40 chữ cái đó có 30 chữ cái đơn là: a, ă, â, b, c, d, đ, e, ê, g, h, i, k, l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, v, x, y, z và 10 chữ cái ghép là: ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, qu, th, tr. Bảng chữ cái tiếng Việt không có ba chữ cái f, chữ j và chữ w. Chữ cái ghép dài nhất là ngh, được ghép lại bởi ba chữ cái đơn. Hai từ dài nhất của tiếng Việt là “nghiêng và khuyếch”, chúng đều có tới bảy (7) chữ cái.
Các âm ghép thì do các âm đơn ghép lại. Tiếng Việt có rất nhiều âm ghép, ví dụ với chữ cái “a” có: ac, am, an, ao, at, au, ach, ang, anh. Từ các âm ghép không có dấu câu này lại kết hợp với năm dấu câu (huyền, sắc, ngã, nặng, hỏi) tạo ra thêm nhiều các âm ghép phong phú hơn nữa. Như chỉ một âm “an” khi thêm năm dấu câu vào có: àn, án, ãn, ạn, ản.
Bốn mươi (40) chữ cái chính là sự ghi âm (mã hóa) của bốn mươi (40) âm vị cơ bản, từ các chữ cái này có thể ghép lại thành các từ vựng. Việc ghi âm này khiến các từ vựng có thể mã hóa của gần như tất cả các âm của tiếng Việt. Khi đọc, mọi người cứ nhìn vào từ rồi phân tích ra âm là đọc được, không cần phải nhớ quá nhiều chữ như các nước Đông Bắc Á. Nếu viết theo chữ tượng hình, sẽ phải nhớ từng chữ một.
Như vậy ta có thể thấy, bốn mươi (40) chữ cái – cả đơn và ghép – của chữ Quốc Ngữ, khi ghép lại thành từ vựng – đã mã hóa thành công gần như toàn bộ các âm (phần tiếng) của ngôn ngữ tiếng Việt, không cần phải thay đổi hay cải cách gì cả. Có chăng thì chỉ cần có một vài cải cách nhỏ, tránh lãng phí ba chữ cái Latin còn lại (f, j, w) đã được sáng tạo ra, để các văn bản lại được viết nhanh hơn, ngắn gọn hơn.




