Những luật ngầm trong sáng tác thơ ca

Tiếng Việt là một ngôn ngữ đa âm sắc. Tùy từng ngữ cảnh và tâm trạng, mà người nói có thể dùng các ngữ điệu âm khác nhau. Người tinh tế đôi khi chỉ cần nghe là đã đoán biết được trạng thái cảm xúc của người nói. Thường thì ngữ điệu âm trầm thể hiện qua những thanh bằng, ngữ điệu bổng thể hiện qua những thanh trắc. Tuy nhiên, người nói có thể vô tình (hay cố tình) hạ giọng hay nhấn giọng, rồi để lộ ra trạng thái tâm lý của mình.

Tiếng Việt mượn nhiều âm của tiếng Hán. Do tính phức tạp của cuộc sống, nên tôi tin rằng ngôn ngữ nào cũng có tính đa sắc, tiếng Hán cũng vậy. Người Việt không chỉ mượn âm, mà còn mượn cả các luật về âm (thể hiện tính đa sắc) của người Hán, như luật luật chơi câu đối, luật thơ cổ phong và Đường luật – trong hai thể thơ: thất ngôn tứ tuyệt (bảy từ bốn câu) và thất ngôn bát cú (bảy từ tám câu). Thơ lục bát của người Việt cũng có luật về âm. Đó là hai từ thứ sáu vần âm với nhau.

Chính vì chuyện thơ ca từ xưa đã có tính “vần” như vậy, nên từ lâu trong sáng tác thơ ca có những luật ngầm “bất thành văn” rất thú vị. Những luật ngầm này giải thích cho việc tại sao bài thơ này, tác giả này lại được yêu thích hơn bài thơ khác, tác giả khác… Đơn giản là bài thơ và tác giả đó đã tuân theo các luật ngầm này, làm rung động được nhiều người hơn. Quần chúng có thể cảm tính, nhưng quần chúng không hề vô lý. Xưa nay, trừ những trường hợp phỉnh phờ quá giỏi, còn lại đa số trường hợp nhân dân chọn là đúng.

Dưới đây là những luật ngầm “bất thành văn” trong sáng tác thơ ca ở Việt Nam:

1. Luật âm bằng trắc tại vị trí của từ
Trong thơ ca mà nói, người Việt ưa sự đồng âm. Tuy nhiên, đồng âm cũng phải theo luật. Ví dụ, thơ lục bát thì hai từ số sáu của hai câu vần âm với nhau. Thơ Đường luật thì yêu cầu về sự vần âm phức tạp hơn… Bởi vậy nên dù có khó, người sáng tác cũng phải chọn được từ cho đúng luật, nếu muốn thơ của mình được yêu mến và lưu truyền rộng rãi. Thành thật mà nói, các “luật” đã được đúc kết khá tốt, khi làm thơ đúng luật, các bài thơ nghe sẽ hay hơn.

Ở các bài hát, tuy không chặt chẽ về luật bằng trắc của âm, nhưng việc ưa những âm vẫn với nhau vẫn còn. Những bài hát có các âm vần với nhau, cộng với ca từ khơi gợi được sự xúc động, sẽ được yêu thích và lan truyền mạnh hơn. Tuy yêu thích sự vần âm, nhưng đưa các từ láy và điệp từ vào lại khá khó. Phải là người sáng tác sành sỏi mới đưa được từ láy và điệp từ – dù là đồng nghĩa hay khác nghĩa – vào trong thơ ca của mình. Phải là những ca từ có tính triết lý cao, tạo nên những tứ thơ rất đắt, mới làm xúc động được người đọc.

2. Luật tối thiểu yếu tố định lượng
Trong chính trị, kinh tế và khoa học mà nói, không thể thiếu được yếu tố định lượng. Nhưng trong văn hóa, mà cụ thể là thơ ca, người Việt rất ghét tính định lượng, đặc biệt là những con số chính xác, càng chi tiết càng ghét. Có lẽ nghệ thuật cần sự lãng mạn, phàm đã là lãng mạn thì ưa sự cảm tính, duy tình… Tức là không duy lí, không có yếu lí trí trong đó. Mà lí trí là gì? Lí trí là phân tích, phán đoán, cân nhắc thiệt hơn, cân đong đo đếm… Lí trí là những con số cụ thể. Nghệ thuật ghét lí trí và sự chi li.

Những câu thơ hay câu hát có các con số cụ thể như: “anh yêu em ba bốn năm…” hay “em yêu anh năm mươi phần trăm…”.., dù có được sử dụng trong giai điệu nào, âm thanh đệm có hay đến bao nhiêu, thì cũng sẽ không được yêu thích và lan truyền một cách rộng rãi ra ngoài xã hội. Thậm chí, chúng còn không được duyệt trong bất kỳ một chương trình biểu diễn chính thức nào. Tuy vậy, một số tác giả trước đây vẫn sử dụng một vài đơn vị định lượng cổ và được chấp nhận như: canh, giờ, khắc, tuần hương…

3. Luật không ưa những chuyện cụ thể
Như trên đã nói, chuyện nghệ thuật là những câu chuyện có yêu tố lãng mạn. Sự lãng mạn lại ghét những con số chi tiết, những chuyện cụ thể… Cho nên câu chuyện thơ ca của Việt Nam, ở những bài bất hủ, thường là những chuyện lớn, chuyện nước non, tình cảm, cảm xúc, đời người… Chứ không phải là những chuyện sinh hoạt đời thường, chuyện tề gia nội chợ… Câu ưa thích phải là những câu như: “Đưa em về dưới mưa…” hay “Cô ấy đi dưới nắng…” chứ không phải là: “Đưa em về lúc mấy giờ…” hay “Cô ấy đi vào bếp…”…

Nhiều người Việt Nam chắc hẳn sẽ rất ngạc nhiên khi biết, một số câu trong những bài hát tiếng nước ngoài nổi tiếng – mà họ vẫn yêu thích bấy lâu – lại là những câu nghe rất đơn giản và cụ thể. Ví dụ: tên ban đầu của bài hát Happy New Year lại là: “Daddy don’t get drunk on Christmas day” tức “Bố ơi đừng uống say trong lễ Giáng sinh”. Hay trong bài Hotel California lại có những câu rất chi tiết như: “Plenty of room at the Hotel California” tức “Có rất nhiều phòng tại khách sạn California”…

4. Luật những yếu tố thời tiết được yêu thích
Trong sáng tác thơ ca, nhìn chung người Việt ưa việc lồng ghép những khung cảnh thời tiết vào để diễn tả tâm trạng, cảm xúc của mình. Khi câu chuyện là buồn, thì trạng thái thời tiết diễn biến xấu – lột tả được thảm cảnh – được yêu thích hơn. Khi câu chuyện là vui thì trạng thái thời tiết đẹp được dùng nhiều hơn. Khi đang yêu thì trời nắng, mây trắng, mùa xuân và mùa hè có nhiều hoa. Khi tình cảm diễn tiến theo chiều hướng xấu thì trời mưa, mây đen, đêm tối, mùa đông hiu hắt, mùa thu lá vàng…

Chưa có một thống kê bài bản về yếu tố thời tiết trong những tác phẩm thi ca Việt Nam, nhất là những bài hát về tình yêu. Nhưng tôi tin rằng, gần như tất cả những bài tình ca đều có nhắc đến yếu tố thời tiết – ngoài hai yếu tố không gian và thời gian, những điều tất nhiên cần có trong các câu chuyện. Suy cho cùng, sáng tác mỗi một bản tình ca – dù bài thơ hay bài hát – là đang kể về một câu chuyện tình. Khi yêu thì gặp gỡ hẹn hò, chuyện thời tiết khi đó khá quan trọng. Đã có nhiều tình khúc ghi lại chuyện tình thành công hay thất bại là do yếu tố thời tiết. Khi chia ly thì thời tiết đẹp cũng buồn.

Lời kết
Sáng tác thơ ca không phải là chuyện dễ… Để sáng tác được những tác phẩm hay, các tác giả cần phải có vốn từ và cảm xúc, gọi chung là “chất liệu” và sự may mắn. Muốn diễn tả chân thực “tình yêu điên cuồng rồi chia tay đau khổ”, thì các tác giả phải tự mình trải nghiệm những cung bậc cảm xúc ấy. Phải mang chính cuộc đời mình ra thí nghiệm, thì mới thấu hiểu, từ đó định nghĩa được tình yêu. Không ai muốn làm các việc ghê gớm ấy cả, nên xưa nay những tình khúc hay ra đời là do ngẫu hứng hay bất đắc dĩ. Vậy nên, nghệ sĩ cũng là những người hùng, bởi thắng chính mình bên trong đôi khi còn khó hơn kẻ địch bên ngoài.

Hình đại diện của Không hiểuGiới thiệu Thành
Người kể chuyện

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.