Những nấc thang dân trí của Việt Nam
15/05/2017 Bình luận về bài viết này
Lý tưởng và lý lẽ là hai phạm trù riêng biệt, nhưng ở Việt Nam rất nhiều người cứ đánh đồng chúng làm một, lồng chúng vào nhau. Thậm chí trong một vài trường hợp, nhà cầm quyền quyền dùng lý tưởng để chèn ép lý lẽ. Một đất nước văn minh cần lý tưởng để đoàn kết, nhưng cần lý lẽ để vận hành. Dân trí cao là người dân được học hành và hiểu được lý lẽ.
Dân trí là điều rất quan trọng nhất, thậm chí quan trọng hơn chuyện cơ chế tổ chức và vận hành của nhà nước. Bởi có những nước đa đảng nhưng vẫn nghèo nàn lạc hậu, mâu thuẫn, xung đột, hỗn loạn… Ngược lại, có những nước nhà cầm quyền độc đoán, chuyên quyền nhưng lại rất phát triển cả kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục… Tất cả là ở dân trí. Dưới đây tôi thử tìm ra bốn nấc thang dân trí của Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử gần đây:
Nấc thang thứ nhất
Những năm đầu cách mạng (1930), người Việt Nam đi làm cách mạng là vì muốn được no ấm, tự do; muốn thoát khỏi hai chế độ phong kiến tập quyền và thực dân hà khắc. Ta có thể gọi dân trí giai đoạn này là ngây thơ, mông muội. Dù có những cá nhân xuất chúng, có tầm nhìn vượt thời đại, vượt không gian và thời gian, nhưng nhìn chung đại đa số dân chúng Việt Nam trong thời kỳ này là hồn nhiên, mông muội.
Nấc thang thứ hai
Đến khi cách mạng thành công hoàn toàn (1975), thống nhất đất nước, bước vào giai đoạn khó khăn do chế độ kinh tế kế hoạch tập trung, người Việt Nam nhận ra là mình ngây thơ. Nhiều người đã xin ra khỏi đảng, phá rào ở khắp nơi. Người ta không chỉ bất bình với chuyện phân chia thành quả chiến thắng không đều, mà còn bức xúc với cung cách quản lý kinh tế xã hội hà khắc.
Nấc thang thứ ba
Rồi đất nước đổi mới (1986), người dân đã không còn mông muội. Người Việt Nam đã biết tư lợi nhiều hơn. Tuy nhiên, với những đau thương và đói kém của những năm chiến tranh và bao cấp, khi được tư lợi thì người Việt Nam lại tư lợi thái quá. Từ quan chức đến dân thường, hễ khi có thể tư lợi là lập tức tìm cách vơ sao cho đầy căng túi mình, vơ càng nhiều càng tốt. Xã hội chuyển vào giai đoạn thực dụng, trọng vật chất, đồng tiền lên ngôi.
Nấc thang thứ tư
Năm 1995, Việt Nam kết nối với mạng toàn cầu (internet), nhưng từ năm 2002 internet mới lan ra toàn xã hội. Từ đó đến nay – 15 năm – người Việt Nam hiện giờ mới chính thức hết ngây thơ, nông cạn. Với internet, người Việt Nam tự lần mò để khai sáng cho mình, chứ nền giáo dục hay các phương tiện thông tin đại chúng bị kiểm soát bởi hệ thống tuyên truyền đã không giúp được nhiều. Thậm chí ngược lại, các “công cụ” này còn cản trở quá trình khai sáng của người dân.
Hiểu biết để tự do
Với việc nâng cao dân trí “quy luật mở rộng dân chủ xã hội” càng thể hiện tính tất yếu của nó. Người dân từ hiểu biết mà đòi các quyền chính đáng của mình, chứ không còn “bị động” chờ nhà nước ban cho nữa. Về phía chính quyền, cùng với việc nâng cao dân trí, những cán bộ thế hệ sau bước chân vào chính quyền người ta cũng có trình độ cao hơn. Có trình độ càng cao – càng hiểu lý lẽ – người ta càng bớt vô lý (tham lam, hợm hĩnh, chuyên quyền, hống hách).
Thay lời kết
Hiện nay có một số cuộc đấu tranh với sự chuyên quyền, hống hách của ở một số tỉnh, huyện trên cả nước, nhưng những cuộc đấu tranh này đều mang tính tự phát, do bức xúc với các vấn đề cụ thể ở địa phương, nên khó có thể trở thành một phong trào rộng khắp trên toàn quốc. Hiện việc kiểm soát “an ninh” đối với lực lượng đấu tranh dân chủ đang giảm bớt do tỉ lệ tội phạm tăng cao và lực lượng đấu tranh dân chủ phát triển mạnh, trong khi các nguồn lực của nhà nước thì hạn chế.
Sau đại hội 12 của đảng (2016), không khí dân chủ được mở rộng, các cuộc thảo luận và đấu tố tham nhũng của nhiệm kỳ trước diễn ra ở khắp nơi. Và một điều tất yếu đã đến: nơi này nơi khác có người đã đặt câu hỏi: “Việt Nam có nên đa đảng?”. Có người hào hứng đồng tình, có người kịch liệt phản đối, tôi cho vấn đề nằm ở dân trí. 10 đến 15 năm nữa, khi những người sinh ra trong thế hệ 6x lên nắm quyền, Việt Nam mới nên đa đảng. Đó là con đường “tốn ít máu” nhất cho Việt Nam.




