Sự phân nhánh của Phật giáo

Phật giáo hay đạo Phật được Phật Tổ Như Lai (còn gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni, tên húy là Tất-đạt-đa Cồ-đàm) sáng lập ra vào khoảng thế kỉ thứ V trước Công Nguyên. Như vậy, cho đến nay Phật giáo đã tồn tại và phát triển được hơn 2.500 năm. Từ vùng núi Ấn Độ, Phật giáo lan truyền đến nhiều nơi trên thế giới.

Ban đầu khi mới thành lập, Phật giáo chỉ có một tông phải là Tiểu Thừa – hiểu như là thuần huyết hay là cỗ xe nhỏ (ít người đi được). Ở thế kỉ thứ I, Phật giáo xuất hiện thêm phái Đại Thừa (cỗ xe lớn nhiều người đi được). Thế kỉ thứ VII thì xuất hiện thêm phái Mật Tông (Kim Cương Thừa) ở Tây Tạng.

Sở dĩ Phật giáo có sự phân nhánh là vì ngay từ thời phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, ngài đã tuỳ vào căn duyên, khả năng lĩnh hội và hoàn cảnh của mỗi học trò để mà truyền đạo. Khi mở rộng, Phật giáo phát triển đến xứ sở nào cũng được người dân ở đó chỉnh sửa cho phù hợp với văn hóa, quan niệm, phong tục, tập quán của mình.

Vì những biến cố trên mà hiện nay Phật giáo có đến ba tông phái chính là phải Đại Thừa là “cỗ xe lớn” – với hàm ý chứa được nhiều người, phái Tiểu Thừa – “cỗ xe nhỏ”  – chứa được ít người hơn và phải Kim Cương Thừa. Dưới đây là những diễn giải về các tông phái đó:

su-phan-nhanh-cua-dao-phat-giao

I. Tiểu Thừa – Theravada

Theravada là Phật giáo nguyên thuỷ, hay Phật giáo Nam Tông, mà các nhà Đại Thừa thường gọi với tâm phân biệt và kỳ thị là phật giáo Tiểu Thừa. Phái này hình thành ngay trong thế kỷ đầu tiên sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni viên tịch – nhập niết bàn.

Chữ Theravada có nghĩa là “Bộ phái kết tập kinh điển bởi các bậc Trưởng Lão” (Theo kinh điển, lần kết tập Tam Tạng này chỉ có sự tham gia của của các bậc A La Hán mà thôi, không có sự tham dự của các vị Tỳ Kheo phàm nhân), do đó nhiều sách còn gọi nhóm này là Trưởng Lão bộ, hay còn gọi là phái: Bảo Thủ, Nam Tông, Nguyên Thủy.

Nghĩa là, phái bảo thủ của Phật giáo có chủ trương thống nhất là: hoàn toàn tôn trọng và bảo toàn tất cả những lời dạy uyên nguyên của Phật Thích Ca, không thêm và cũng không bớt những gì mà đức Phật đã thuyết giảng trong Tam Tạng kinh điển bằng ngôn ngữ Pàli.

Trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ 3, hội đồng tham gia kết tập Tam Tạng đã công nhận Bộ phái với tên gọi là Trưởng lão bộ. Sau đó, người con trai của vua Asoka (A Dục Vương) là Mahinda đã xuất gia cùng với một người em gái, sau đó cả hai đã vâng lời ý nguyện của vua cha, đã cùng với một phái bộ hùng hậu đem tất cả Tam Tạng kinh điển đến truyền bá ở vương quốc Tích Lan.

Vào thời kỳ đó, phật giáo Theravada đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của đức vua và dân chúng xứ quốc đảo sư tử nên đã có thời kỳ hưng thịnh rực rỡ như chưa từng thấy. Tam tạng kinh điển bằng tiếng Tích Lan sau đó đã được chuyển dịch lại sang tiếng Pàli và các tạng kinh này đã được phật giáo nguyên thủy (Theravada) duy trì và sử dụng cho đến tận ngày nay.

II. Đại Thừa – Mahayana

Mahayana có tên gọi khác là phật giáo Đại thừa hay phật giáo Bắc tông. Từ thế kỉ thứ 1 TCN các tư tưởng Đại thừa đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ Mahayana, hay Đại thừa, chỉ thực sự có khi nó được đề cập trong bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma pundarika sutra). Nói chung, ý tưởng Mahayana là có xu hướng rộng rãi và tự do hơn là các phép tắc ràng buộc của Theravada.

Đến thế kỉ thứ 3 khái niệm Mahayana mới được xác định rõ ràng qua các trước tác của bồ tát Long Thọ (Nagarjuna) trong Trung Luận (hay Trung Quán Luận), chứng minh tính không của vạn vật. Các ý này đã được Long Thọ khai triển dựa trên khái niệm “Vô ngã” và “Duyên sinh” đã có từ trong các kinh điển Pali.

Bên trong Đại thừa, lại có các trường phái khác như là Madhymaka, Yogacara.

1. Tịnh Độ Tông – Pure Land
Tịnh Độ Tông (Pure Land) xuất hiện vào giữa thế kỉ thứ IV từ sự truyền bá của sư Huệ Viễn (Hui-yuan). Tư tưởng về Tịnh Độ thì có sẵn trong phật giáo Ấn Độ nhưng tới khi sang Trung Hoa thì nó phát triển thành một tông phái.

Tịnh Độ tông cũng đuợc xem là một nhánh của Đại thừa song tông này không có sự truyền thừa như các tông phái khác mà chỉ do sự đóng góp công sức để phát huy giáo lý Tịnh Độ.

Đây là một trong các tông phái tương đối dễ tu học nên ở Đông và Nam Á có rất nhiều phật tử trong vùng theo tông này, nhất là những người cao tuổi.

2. Thiền Tông – Dhyana
Thiền tông (Dhyana) còn có các tên khác là Zen, Ch’an, tên cũ là Thiền Na.

Thiền là một phương tiện căn bản đã được đạo phật sử dụng ngay từ khởi thủy. Nhưng cho đến khi thiền sư sơ tổ của môn phái thiền Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) du hành sang Trung Hoa (năm 520) và truyền lại thì Thiền tông bắt đầu trở thành một tông phái riêng biệt.

Đến đời thứ sáu, sư Huệ Năng (Hui-neng) đã đưa Thiền tông dần dà phát triển và trở thành thịnh hành hơn tất cả các tông phái khác ở Trung Hoa. Huệ Năng cũng là người đã hủy bỏ thông tục truyền thừa, nghĩa là không có sư tổ đời thứ bảy của Thiền Tông, thay vào đó là hàng loạt các thiền sư có khả năng mở thành các phái thiền khác dựa theo sự phân biệt về cung cách luyện tập và cách để đưa thiền giả đến chỗ chứng ngộ chân lý.

Ngày nay, Thiền tông là một trong những pháp môn đuợc tu tập nhiều nhất ở các nước phương Tây. Theo nhiều nhà phân tích thì Thiền tông là một phân nhánh của Đại thừa.

III. Kim Cương Thừa – Vajrayana – (Mật tông)

Varayjana còn có tên gọi là Tantra, Mật tông. Khác với các bộ phái khác, Mật tông thường có khuynh hướng giữ bí mật các thông tin nên khó xác định được chính xác thời điểm ra đời của tông này. Varayjana xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ VI, hay chắc chắn hơn là thế kỉ thứ VII.

Phái này chia sẻ chung nhiều tư tưởng với Đại thừa nhưng có nhấn mạnh trong việc thực hành. Các truyền giảng được tập trung vào nhiều phương pháp tu học thực nghiệm mãnh liệt để đẩy nhanh việc thăng tiến và có thể ngay trong cuộc sống hiện tại sẽ đạt đuợc giác ngộ. Các thực nghiệm này thường được gọi là phương tiện.

Trong Mật tông, việc tu tập không thể tự tiến hành theo sách vở mà phải có một đạo sư đã giác ngộ gọi là “guru” để chỉ dẫn thực hành. (Chữ guru này nay đã trở thành phổ biến trong tiếng Anh và có nghĩa là người thấu triệt toàn bộ một việc gì đó).

Mật tông được chia làm hai nhánh Tả phái và Hữu phái. Riêng Mật tông Tả phái phát triển nhiều quan điểm dị biệt, trong đó đáng lưu ý là việc sùng bái các Sakti, các nữ thần về tính dục (theo Edward Conze). Nếu như Đại thừa có nhiều tính chất thiên về triết lý, tư duy thì Mật tông đi xa hơn về mặt thực nghiệm và cũng thể hiện sự thích ứng linh hoạt của Phật giáo.

Theo Wikipedia.org

Hình đại diện của Không hiểuGiới thiệu Thành
Người kể chuyện

2 Responses to Sự phân nhánh của Phật giáo

  1. Hình đại diện của Tiểu tâm Tiểu tâm says:

    Một bài viết như vầy không giúp ích được gì nhiều. Bởi nó làm mọi thứ càng mù mờ. Sao không đưa ra được nhưng triết lý cụ thể đặc trưng, những khác biệt chính giữa các nhánh, nguyên nhân của sự khác biệt, v..v..

    Thích

    • Hình đại diện của Thành Thành says:

      Hoặc Tiểu Tâm có thể viết ra một bài, rồi đăng lên blog của mình. Tôi chỉ sao chép lại bài của người khác, vừa để giới thiệu một cách sơ sài, vừa để hiểu qua loa về đạo Phật. Tôi không có ý định, càng không có tham vọng qua một bài viết ngắn này có thể giới thiệu rành mạch về đạo Phật. Xin cảm ơn .

      Thích

Gửi phản hồi cho Thành Hủy trả lời

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.