Chính phủ chiết trung
21/02/2013 Bình luận về bài viết này
Ở ta hiện nay đang có rất nhiều bài toán nghịch đang cần tìm lời giải đáp. Vừa muốn tăng trưởng, vừa muốn chống lạm phát. Vừa muốn giải quyết hàng tồn kho, vừa không muốn giảm giá thành sản phẩm. Vừa muốn tái cơ cấu hệ thống, vừa không muốn đào thải các đơn vị yếu. Vừa muốn giải quyết nợ xấu, vừa không muốn mất tiền (vốn).
Chiết trung là nỗ lực dung hòa (một cách kiên cưỡng) các vấn đề đối nghịch cho gọi là vừa phải. Có thể nói chính phủ của ta là một chính phủ chiết trung.
*
Sự tăng trưởng của một nền kinh tế thể hiện qua việc bộ phận sản xuất làm ra được nhiều hàng hóa, dịch vụ. Khi lượng hàng hóa, dịch vụ nhiều thì nhà nước phải in tiền ra để – chia cho mọi người – tiêu dùng chúng, chứ tiền bạc không thể in bừa bãi. Vậy nền kinh tế phát triển là nền kinh tế mở rộng về mặt quy mô.
Hiện đồng đô la Hoa Kỳ là ngoại tệ mạnh nhất thế giới. Tuy không còn được đảm bảo, cam kết bằng số vàng dự trữ trong ngân khố quốc gia (bản vị vàng) của họ, nhưng đồng đô la là đồng tiền thanh toán dầu mỏ (bản vị dầu mỏ) giữa các quốc gia với nhau, nên nước nào cũng cần dự trữ đồng đô la để thanh toán quốc tế.
Nhưng từ khi đổi mới đến nay, kinh tế nước ta chỉ tăng lượng về lượng chứ chưa tăng về chất. Bản chất tăng trưởng của ta là đầu tư nhiều nên sản xuất được nhiều. Còn nền kinh tế được coi là tăng trưởng về chất khi hội tụ đủ hai yếu tố 1. Năng suất lao động cao và 2. Tỷ suất lãi cao.
Muốn có năng suất lao động cao thì dây chuyền công nghệ phải tân tiến, hiện đại. Đội ngũ vận hành phải có tay nghề cao. Ví thử trong một giờ một công nhân Việt Nam sản xuất được 10 cái áo sơ-mi, trong khi đó một công nhân Hàn Quốc sản xuất được 30 chiếc, rõ ràng điều đó là đáng lo ngại. Nếu chất lượng những chiếc áo sơ-mi của họ tốt hơn nữa, thì ở đây có lẽ chẳng còn gì để bàn.
Muốn có tỷ suất lãi cao, nói nôm na là bán được hàng hóa với giá thành cao thì sản phẩm phải có thương hiệu. Bản chất của hàng hóa có thương hiệu là sản phẩm có chất lượng tốt, hàm lượng chất xám trong các sản phẩm cao. Khi bán được hàng hóa với lãi lớn thì mới có đủ nguồn tài chính để tái đầu tư, mở rộng sản xuất và thị trường.
Biện phát để vừa chống lạm phát lại vừa chống giảm phát tốt nhất là cho các đơn vị sản xuất làm ăn hiệu quả vay vốn. Song song với đó là hướng sản xuất vào hàng công nghệ cao và xa xỉ để xuất khẩu. Cho các đơn vị sản xuất hàng thiết yếu vay vốn để sản xuất sản phẩm, tránh khan hiếm hàng hóa. Các đơn vị sản xuất phát triển tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, thu nhập quốc dân cho đất nước. Hàng hóa họ sản xuất ra chống lạm phát, vì khan hiếm thì giá sẽ tăng. Còn những khó khăn của các đơn vị thương mại, các tổ chức trung gian là có thể lường trước và trước mắt điều đó chưa đáng lo ngại.
*
Hiện nay rất nhiều đơn vị sản xuất có sản phẩm tồn kho lớn nhưng không muốn giảm giá để bán hàng. Họ không muốn giảm giá, đúng hơn là không thể hạ giá thành sản phẩm vì họ đã phải mua nguyên vật liệu đầu vào với giá thành cao, cộng với các chi phí quản lý và các chi phí không chính thức khác làm nâng cao chi phí đầu vào của mỗi sản phẩm. Hạ giá bán ra đồng nghĩa với việc họ sẽ không thu lại đủ nguồn vốn đầu vào.
Thời gian gần đây chính phủ hạn chế chi tiêu công, các ngân hàng hạn chế cho vay làm một lượng tiền lớn nằm trong két. Một nguyên nhân khác gây ra hiện tượng tồn kho là tâm lý tiết kiệm của người dân. Mọi người vừa không sẵn tiền mặt, vừa hạn chế chi tiêu làm cho sản phẩm của các đơn vị sản xuất, nuôi trồng, xây dựng tồn kho rất nhiều.
Một nguy cơ của việc các ngân hàng hạn chế cho vay, đó là nếu không cho các đơn vị sản xuất vay thì đến một lúc nào đó có thể sẽ có một loại hàng hóa không đủ để cung cấp cho xã hội. Khi cung không đủ cầu thì sẽ đội giá thành của sản phẩm đó lên cao. Lúc đó lại gia tăng lạm phát, lợi bất cập hại. Để giải quyết hàng tồn kho cần có các biện pháp:
– Tổ chức hội chợ trên toàn quốc. Hội chợ là nơi nhà sản xuất trực tiếp gặp người tiêu dùng – không qua bước trung gian nào cả. Hai bên sẽ thỏa thuận được với nhau giá thành tốt nhất. Tuy nhiên, nguy cơ của việc này là có thể bóp chết hệ thống bán lẻ. Hệ thống vốn giải quyết được công ăn việc làm cho khá nhiều người.
– Cho vay tiêu dùng. Người có thu nhập ổn định cũng giống như các đơn vị làm ăn tốt – họ luôn sinh lời. Thu nhập của họ là lương hoặc các nguồn thu có thể kiểm chứng được. Khi các hàng hóa bán theo hình thức trả góp thì sẽ khuyến khích được các đối tượng này tiêu dùng.
– Chi tiêu công. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình thiết yếu giảm ùn tắc giao thông, phát triển kinh tế, an sinh xã hội… Việc đầu tư xây dựng này sẽ giải quyết được đầu ra sản phẩm cho các đơn vị sản xuất đầu mối như thép, xi măng, vật tư xây dựng… Giải quyết công ăn việc làm cho các đơn vị xây dựng. Việc chi tiêu công sẽ làm một lượng tiền đi vào xã hội, từ đó kích thích tiêu dùng.
*
Người viết không muốn bàn đến vấn đề tái cơ cấu vì ở nước ta vấn đề này liên quan đến yếu tố chính trị. Các chính sách kinh tế của ta vốn không nhất quán nên đến người sắp đưa ra chúng còn không lường được hết các khả năng có thể xảy ra, thì một người bình thường như tôi bàn đến chúng làm gì, cố bàn thì sẽ là kẻ hồ đồ.
*
Về nợ xấu của các ngân hàng thì người viết có một nhận định là, may cho khoản vay rủi ro nếu chúng chưa được dải ngân hết. Những khoản nâng khống tài sản thế chấp mà việc cho vay đã triển khai rồi, thì ngân hàng gắng thu hồi tiền lại mà phòng ngừa thôi. Tôi tin thời gian vừa qua có vài ngân hàng làm ăn không chắc chắn bằng mấy hiệu cầm đồ.




