Việt Nam còn “rừng vàng biển bạc” không?
14/05/2020 Bình luận về bài viết này
Lâu rồi tôi không còn lo chuyện bao đồng. Bởi chuyện của mình còn chưa lo được, còn đâu tâm trí để lo chuyện bao đồng. Ấy thế nhưng Việt Nam nói riêng, và có lẽ là thế giới nói chung có một kiểu người như tôi, không biết mình sẽ làm gì nhưng lại biết một cách chính xác là người khác làm gì thì sẽ tốt cho đại cục. Đó gọi là lo chuyện bao đồng!
Người xưa có câu: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Không biết mình sẽ làm gì, thôi thì phải nhận mình là “thất phu” vậy. Tôi có thể nói nhiều hay nói ít, có thể nói đúng hay nói sai, nhưng chưa bao giờ dám nói điêu. Mà đã là “thất phu” thì phải “hữu trách”, theo như lời dạy của người xưa, các cụ nói cấm có sai. Thế nên, thôi đành lại phải đi lo chuyện bao đồng.
Việt Nam còn “rừng vàng biển bạc” không?
Vì ngày xưa ông cha ta có câu đất nước Việt Nam “Rừng vàng biển bạc”. Ấy thế nhưng một loạt các tin tức nhiều năm trở lại đây cho chúng ta thấy rằng, thời thế đã thay đổi, cả rừng và biển đều bị khai thác đến kiệt quệ, không những không còn trù phú nữa mà ngược lại là rất nghèo nàn. Nguyên nhân đến từ sự gia tăng dân số và các hình thái thời tiết cực đoan. Hai yếu tố chính tàn phá rừng và biển.
Trong chiến tranh rừng bị tàn phá nhiều. Sau chiến tranh, các cuộc di dân mở vùng kinh tế mới, rừng cũng bị tàn phá nhiều. Ngay cả bây giờ, truyền thông nhà nước đôi khi vẫn đưa tin rừng bị tàn phá nhiều ở Tây Nguyên. Biển của ta thì vừa bị đầu độc bởi nước thải công nghiệp, vừa bị đầu độc bởi rác thải nhựa. Tần suất khai thác lớn khiến các loại hải sản ven bờ đã gần như cạn kiệt, bây giờ cần phải đóng tàu sắt lớn vươn ra xa.
Khí hậu toàn quốc nhiều năm gần đây, các hình thái thời tiết cực đoan cứ liên tục lập kỉ lục, năm sau cao hơn năm trước. Nào là lạnh giá kỉ lục ở miền bắc, ngập lụt kỉ lục bắc Trung Bộ, hạn hán kỉ lục ở nam Trung Bộ, rồi hạn hán và xâm nhập mặn kỉ lục ở Nam Bộ (nước ở đầu nguồn sông Mê Kông về rất ít). Nếu coi thiên nhiên nước ta là một cơ thể sống, thì cơ thể đó không thể chịu đựng mãi được trước sức tàn phá của con người và thiên tai.
Việt Nam không còn “rừng vàng biển bạc”
Trước những điều kiện đó, người Việt Nam có còn sống được trên đất này không? Xin thưa, nếu quản lý nhà nước tốt và quản lý nền kinh tế thị trường linh hoạt thì chúng ta vẫn sống được, sống tốt, thậm chí sống khỏe. Nhưng vấn đề thật tệ hại là: chúng ta quản lý không tốt. Tài nguyên thiên nhiên của chúng ta không còn đa dạng phong phú được như trước, nhưng vẫn hơn nhiều so với Nhật Bản, Israel…. Tài nguyên của họ rất ít, nhưng họ vẫn là những cường quốc.
Trước đại dịch Covid-19, người Việt Nam bỏ đất nước đi rất nhiều, cả đi công khai và đi mờ ám. Lý do thì rất nhiều, đi học, đi làm, đi lấy chồng, đi du lịch rồi ở lại…, nhưng tóm lại là do người ta thấy không có cách nào để làm ăn trên quê hương mình, không có cửa sống, nhất là những tỉnh đất đai khô cằn ở miền Trung. Có lẽ, phong trào đi nước ngoài ở đây chỉ kém phụ nữ Nam Bộ xuất ngoại đi lấy chồng tây. Ở Nam Bộ nếu chịu khó làm ăn, thì không đến nỗi không có cửa sống.
Tại sao Nhật Bản và Israel họ làm được mà ta không làm được? Xin thưa, là do quản lý ngân sách. Bến Tre và Cà Mau giờ biển đang xâm thực đất liền, mà ngân sách không còn tiền để đắp đê ngăn sóng. Ninh Thuận và Bình Thuận hiện đang hạn hán kỉ lục, nước có trong các đập thủy điện trên cao, nhưng ngân sách không còn tiền để làm hệ thống thủy lợi dẫn nước về tạo sinh kế cho nông dân. Nước về thì mới nuôi trồng được, nuôi trồng được thì mới sống mà bám đất, bám làng được.
Vậy ngân sách của chúng ta đâu?
Thu chi thế nào mà một đất nước gần 100 triệu dân, đổi mới trong hơn 30 năm qua, ngân sách lại “đói kém” thế? Xin thưa, hệ thống cồng kềnh, chi thường xuyên cho lương bổng, hội nghị, họp hành, khánh tiết quá nhiều. Có được chút ngoại tệ từ bán dầu mỏ từ năm 2000 đến năm 2008, thì các cán bộ uống rượu tây, mua xế hộp và đi du lịch nước ngoài hết. Tiền liên tục thất thoát trong các đại án mới đây nối nhau được khui ra, thì còn đâu để đầu tư mà phát triển?
Ấy thế nhưng cho đến bây giờ, nhiều người Việt Nam vẫn còn bênh người tham nhũng lắm. Ban đầu cuộc chiến tham nhũng gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Vì người ta hưởng lợi ích quen rồi, quen gì chứ quen sướng là khó bỏ lắm. Nhưng chế độ nguy ngập như “nước đến cổ” rồi, không bơi thì chìm. Cuộc chiến tham nhũng thời gian qua không phải là sự lựa chọn kiểu “muốn tốt nên làm”, mà là việc “bắt buộc phải làm” vì sự tồn vong của chế độ.
Đất nước vừa có một số tín hiệu mừng như: vực lại được thị trường bất động sản, chống đỡ cho hệ thống ngân hàng không sụp đổ, siết chặt kỉ cương ngân sách, điều hành chặt chẽ các chính sách tài khóa và tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô, dự trữ ngoại hối khả quan một chút thì đại dịch Covid-19 đến. Mọi thành quả đã gây dựng và tích lũy được từ sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đến nay bay hết veo trong vòng vài tháng. Giỏi hay dốt gian nan mới biết.
Lời kết
Đại dịch không chỉ làm kinh tế Việt Nam kiệt quệ, mà kinh tế thế giới nhiều nước cũng thất bát không kém. Điều này dẫn đến việc, rất nhiều người Việt Nam ở nước ngoài phải về nước. Dĩ nhiên, nhiều thôi chứ không phải là tất cả. Cũng như thế giới, Việt Nam đang phải chịu hậu quả kép từ đại dịch, đó là vừa bị giảm nguồn thu ngân sách nhưng lại phải tăng chi để chống dịch. Nguồn thu thì thuế giảm do nền kinh tế đóng băng. Chi tiêu thì ngoài các khoản chi cũ giờ phải chi thêm cho phòng dịch, an sinh, hỗ trợ, tái thiết…
Vậy nên, nếu không thu gọn được hệ thống để giảm chi thường xuyên, đầu tư ngân sách hiệu quả vào các công trình có tính lan tỏa cao trong nền kinh tế, thì mọi thứ sẽ tệ hại hơn trước đại dịch rất nhiều, Việt Nam không phải là nơi đáng sống. Những người về nước đợi khi mọi chuyện bình thường, người ta sẽ tìm cách ra đi. Nếu quản trị đất nước tốt như Nhật Bản và Israel, tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp, thân thiện với người dân và doanh nghiệp, thì ở Việt Nam sẽ là nơi đáng sống, thậm chí làm giàu được. Hãy biến Việt Nam thành quốc gia đáng sống.




