Muốn trở thành danh nhân phải từ quan

Nhìn lại lịch sử Việt Nam, không hiểu tại sao những danh nhân nổi tiếng nhất đất nước – được người đời phong cho là sự hiểu biết đạt đến tầm bác học – lại có đặc điểm chung là: “đều cáo quan về ở ẩn”. Nói có sách mách có chứng, dưới đây tôi xin liệt kê ra những danh nhân nổi tiếng nhất đất nước và các năm từ quan (hay cáo quan) của họ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm – Tuyết Giang Phu Tử – Trạng trình
Năm 1540 (Canh Tý) Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) còn ít tuổi lên thay vua cha, nhưng do còn nhỏ chưa đủ năng lực điều hành chính sự nên triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần (trong đó có cả con rể ông là Phạm Dao – Trấn thủ Sơn Nam), nhưng không được vua chấp thuận. Bởi vậy, năm 1542 ông xin về quê làm trí sĩ – sau 8 năm làm quan ở triều đình.

Nguyễn Thiếp – La Sơn Phu Tử
Năm 1756 (Bính Tuất), lúc này đã 33 tuổi, Nguyễn Thiếp được bổ làm Huấn đạo (chức quan trông coi việc học trong một huyện) ở Anh Đô (phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Ở đó 6 năm, ông được đổi làm Tri huyện Thanh Giang (nay là Thanh Chương, Nghệ An). Năm 1768 (Mậu Tý), ông xin từ quan về ở ẩn tại trại Bùi Phong trên dãy Thiên Nhẫn.

Chu Văn An – Vạn thế sư biểu (Người thày muôn đời)
Năm 1324, vua Trần Minh Tông mời ông ra làm Tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông tương lai. Đến đời Dụ Tông, thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng “Thất trảm sớ” xin chém bảy tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều ẩn (người hái củi ở ẩn) dạy học, viết sách cho tới khi mất.

Phan Huy Chú – Người biên soạn cuốn “Bách khoa toàn thư” đầu tiên
Năm 1831 (Tân Mão), triều đình cử Phan Huy Chú làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Nhưng khi về nước, thì cả đoàn sứ bộ đều bị giáng chức (ông bị cách chức), vì tội “lộng quyền”. Năm 1832 (Nhâm Thìn), cho ông làm phục dịch trong phái bộ sang Batavia (Giang Lưu Ba, Indonesia) để lập công chuộc tội.

Năm 1834 (Giáp Ngọ) trở về, ông được bổ làm Tư vụ bộ Công. Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin về hưu ở làng Thanh Mai, thuộc huyện Tiên Phong (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi mất. Cuốn nổi tiếng nhất của ông là “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí”, được đánh giá là cuốn “Bách khoa toàn thư” đầu tiên của Việt Nam.

Lê Quý Đôn – Nhà bác học lớn thời kỳ phong kiến
Năm 1764 (Giáp Thân), Lê Quý Đôn dâng sớ xin thiết lập pháp chế, vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ “đã quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật”, nhưng không được chúa nghe. Cũng năm này, ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải Dương – năm 1765 (Ất Dậu), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu.

Có người nói, Lê Quý Đôn từ quan là vì thấy nhà chúa mỗi ngày thêm sa đà vào các việc vui chơi, muốn bổ ông đi trấn cõi ngoài, để không còn phải nghe những lời can ngăn của ông, chứ không hẳn là vì nỗi buồn riêng về vợ con. Năm 1761, vợ Lê Quý Đôn là Lê Thị Trang (sinh năm 1733) mất vì bệnh lao khi chưa đầy 30 tuổi, lúc ông bà có sáu người con.

Kết luận
Vậy đó, với những thống kê trên, khi đọc xong bài này và muốn trở thành danh nhân của Việt Nam, mời quý vị độc giả của tôi hãy cáo quan về ở ẩn. Đây không phải là vấn đề “không hợp thời thế” hay “bức xúc chế độ”, mà là cáo quan về ở ẩn mới có đủ điều kiện về thời gian để học tập và nghiên cứu. Danh hiệu “bác học” có nghĩa là “học rộng”, mà để học rộng cần phải điều kiện về thời gian và không gian.

Hình đại diện của Không hiểuGiới thiệu Thành
Người kể chuyện

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.