Người Việt Nam thích chè hay cà phê?

Chè và cà phê là hai thức uống không cồn được tiêu thụ nhiều trên thế giới. Tuy không cồn nhưng chúng vẫn là đồ uống có chất kích thích. Hai thức uống này ít hại hơn các loại nước ngọt. Với bản tính thích chất kích thích của mình, người Việt Nam thích cả chè và cà phê. Nhưng có điều lạ là, người Việt Nam trồng nhiều chè và cà phê như nhau, xuất khẩu nhất nhì thế giới, nhưng ra quán (miền Bắc) uống một cốc chè 5 ngàn đồng thì thấy đắt, còn uống cốc cà phê 20 ngàn đồng lại thấy rẻ.

Đây có lẽ là do yếu tố lịch sử, văn hóa và thói quen. Chè tiếng Nôm, trùng tên với một loại đồ ăn vặt nấu từ các loại hạt, rồi cho đường vào, hay trà (tiếng Hán) là thức uống của người Việt Nam từ hàng nghìn năm trước, còn cà phê thì tôi cho là xuất hiện ở Việt Nam không quá 200 năm. Nếu trước đây có người Việt uống, thì số lượng cũng là rất ít. Hiện nay, ở Việt Nam người miền Nam và miền Trung uống nhiều cà phê hơn miền Bắc. Một ly cà phê đen ở hai miền này giá chỉ 7 ngàn đồng đến 10 ngàn đồng, còn ở miền Bắc giá 20 ngàn đồng, người uống vẫn cảm thấy rẻ.

Ở Việt Nam, cây chè được trồng nhiều ở miền Bắc, còn cà phê được trồng nhiều ở miền Nam. Gần đây, cây cà phê cũng “Bắc tiến”, được trồng nhiều ở Sơn La nhưng chưa biết hiệu quả thế nào. Hai loại cây này trồng nhiều diện tích như nhau, cũng đông lực lượng lao động, tiếp đó là các công tác cũng nhang nhác giống nhau (hoặc tôi không biết) như: chăm bón, gặt hái, thu mua, chế biến, tiếp thị, bán hàng… Có lẽ hai loại cây trở thành nguyên liệu thức uống này chỉ khác nhau ở điểm: cây chè thì hái lá còn cây cà phê thì hái quả.

Cà phê ở Việt Nam là do người phương Tây mang sang, cả cây trồng và thói quen thưởng thức. Thời trước cứ cái gì gắn với người Tây thì sang trọng và lịch thiệp, thành ra trong tiềm thức người Việt Nam hình thành lối suy nghĩ cà phê là thức uống ở những nơi sang trọng, lịch thiệp. Người yêu, bạn bè, đối tác gặp nhau vì những việc quan trọng thì ra quán cà phê. Còn xã giao thân mật, gần gũi thì ở nhà pha ấm chè là được. Quán sang trọng thì chủ quán phải đầu tư mất nhiều tiền, mất nhiều tiền thì giá đồ ăn thức uống phải cao hơn.

Do đó, giá một cốc cà phê đắt là đắt ở “thương hiệu”, tiền đầu tư cơ sở vật chất, tiền thuê mặt bằng, tiền lương nhân viên, tiền này tiền nọ…; chứ không phải đắt ở bản thân thứ đồ uống màu đen, mà nhiều người cho là vừa ít vừa đắng. Nói vậy thôi chứ các loại chè giá cũng rất đắt, phải đến cả triệu đồng, thậm chí vài triệu đồng một cân. Tất nhiên, cũng có những loại cà phê hảo hạng rất đắt dành cho những người nhiều tiền. Giá của chúng cũng đắt không kém chè, thậm chí đắt hơn. Nhưng điều chúng ta đang bàn ở đây thức uống phổ thông, dành cho phần lớn mọi người.

Tôi tin rằng, những người có cơ địa yếu không uống được những loại đồ uống có chất kích thích, dù là chè, cà phê hay các thức uống khác. Một người bạn tôi nói, nếu anh uống chè hoặc cà phê vào lúc ba giờ chiều, thì sẽ bị mất ngủ đến tận ba giờ sáng, thậm chí hơn. Tôi cũng tin rằng, phải đến 50% người trưởng thành ở Việt Nam không uống cả chè và cà phê. Tuy vậy, ai muốn uống được hai loại đồ uống này thì có thể luyện tập dần dần. Có điều, cái dở của “các loại đồ có chất kích thích” là, khi nạp chúng vào người theo một thói quen thì sẽ trở thành nghiện.

Thức uống không cồn phổ biến ở Việt Nam không chỉ có chè và cà phê, mà còn có rất nhiều loại khác, phần nhiều do người xưa để lại, đó là các loại đồ uống như (miền Bắc): nước vối, nước nhân trần, nước chè xanh (tươi), nước giảo cổ lam, nước ngành ngạnh, nước linh chi, nước hoa hoè, nước cây thìa canh, nước bát bảo, nước húc hắc, nước lá sen… Mà theo dân gian truyền lại thì mỗi thứ có một tác dụng riêng, không nhất thiết là bổ, mà có thể là vị thuốc giải độc, tiêu mỡ… Tôi cho là bất cứ gì, cứ nạp vào người số lượng vừa phải thì còn tốt, chứ vượt quá định mức là sẽ hỏng. Thuốc bổ uống nhiều quá cũng không tốt, có khi còn gây hại.

Vậy thì mở một quán chè, quán cà phê hay chuỗi quán chè hoặc cà phê thì hiệu quả thế nào? Chè và cà phê là thức uống, được xếp vào loại cung cấp sản phẩm ra thị trường. Quá trình hoạt động kinh doanh gồm các bước: nguyên liệu -> pha chế thành sản phẩm -> đưa đến tay người tiêu dùng (đổi sản phẩm lấy tiền). Mà chè hay cà phê không phải là loại sản phẩm mới, độc đáo hay khó làm, cho nên trên thị trường sẽ có nhiều đối thủ. Nhiều đối thủ thì làm giàu sẽ khó, cá lớn nuốt cá bé, ai có nhiều vốn hơn thì thắng kẻ lom dom, chứ không có tài năng hay kỳ diệu gì cả.

Công bằng mà nói, hôm nào ăn một bữa nhiều đạm, mà lại ăn no nữa thì rất thèm cà phê. Cà phê kích thích tiêu hóa tuyệt diệu. Hôm nào ăn chay, ăn thanh đạm, nhiều chất sơ thì lại thích uống chè. Tôi có cái dở là thích cả chè lẫn cà phê, tùy từng tình huống. Việt Nam từ khi đổi mới, mở cửa đã thay da đổi thịt từng ngày. Giải phóng sức lao động nên sản xuất tăng nhanh, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao. Tương ứng với đó cà phê sẽ dần được yêu thích và tiêu thụ nhiều hơn. Nhưng với truyền thống lâu đời của chè, thức uống này sẽ vẫn được dùng nhiều ở Việt Nam trong vài trăm năm nữa.

Nếu tôi có dày vốn, tôi cũng sẽ mở một quán chè sang trọng, cơ sở vật chất hiện đại, đồ pha chế tinh xảo, cách pha chế cầu kỳ. Cùng với đó là nghĩ ra triết thuyết gì đó, sử dụng các từ ngữ chuyên môn của mấy ngành học thuật, sao cho có vẻ hàn lâm, uyên bác. Rồi các khách hàng nhiều tiền sẽ tới, mà tôi tin quán chè sẽ đông hơn quán cà phê, bởi hiện giờ người Việt Nam vẫn thích chè hơn cà phê. Rồi từ quán đó tôi phát triển ra thành hai quán, ba quán, dần dần thành chuỗi. Tôi sẽ thành “Vua chè Việt Nam”, ai có hứng thú thì liên hệ để cùng tôi lập đề án.

Phát triển một quán chè đá vỉa hè hay một hãng lớn (với nhiều chuỗi ở các thành phố, thậm chí quốc gia) thì đều phải quản lý tốt và chuyên cần. Thiếu một trong hai thứ đó sẽ hỏng. Quản lý tốt phải dành cả thời gian và tâm trí để vun vén từng tí một: từng giờ, từng ngày, từng tuần, từng tháng. Chứ nay làm, mai nổi hứng bỏ quán đi du lịch, thì có tài và dài vốn mấy cũng hỏng. Người xưa có câu nói sau để sắp xếp trình tự những người vất vả nhất trên đời: “Thứ nhất là kẻ mồ côi, thứ nhì buôn bán, thứ ba góa chồng”. Tri thức dân gian và trí tuệ nhân dân rất thâm sâu và sung túc, kiến thức chuyên gia và tri thức hàn lâm chỉ là một phần trong đó thôi.

Hình đại diện của Không hiểuGiới thiệu Thành
Người kể chuyện

2 Responses to Người Việt Nam thích chè hay cà phê?

  1. Hình đại diện của maipoirrier maipoirrier says:

    Tôi rất thích thú đọc bài này của bạn.
    Giá bán còn tùy thị trường: ở Bỉ giá của trà, dù là mua ở chợ hay tiêu thụ ở các hàng quán, gấp đôi hay có khi tới gấp mười lần giá của cà phê. Một cốc cà phê chỉ phải trả 1 hay 2 euros trong khi một chén trà giá trung bình là 5 euros. Mua ở tiệm, một hộp trà ngon, 100gr, giá lên đến 15 – 17 euros trong khi 250 gr cà phê đắc nhất cũng không tới 10 euros.
    Gợi ý bạn, nếu muốn làm giàu thì sang Bỉ kinh doanh trà !
    Cái khổ là kinh doanh khó, chắc là khó hơn ở bên ta, cần nhiều vốn, cần tiếp thị sản phẩm, khi có lãi thì phải đóng thuế rất cao…

    Thích

    • Hình đại diện của Thành Thành says:

      Rất nhiều nội dung của bài này là của bài “Văn hóa uống ở Việt Nam” cháu đã định viết từ lâu nhưng bỏ dở… Viết bài này thế này, bài kia lại thành khó.

      Đã thích bởi 1 người

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.