Danh từ

Danh từ là một bộ phận quan trọng của bất kỳ ngôn ngữ nào trên thế giới. Các bộ phận khác là: động từ, tính từ, trạng từ, mạo từ… Các ngôn ngữ trên thế giới nhìn chung có hai thành tố chính là tiếng nói (âm) và chữ viết (ký tự mã hóa âm). Việc sử dụng danh từ trong ngôn ngữ tiếng Việt có vấn đề, và nhìn chung là tiếng Việt thiếu danh từ.

1. Danh từ chung danh từ riêng
Danh từ có danh từ chung và danh từ riêng. Danh từ chung ví dụ: sông, núi, giáo viên, bác sĩ, nhà thơ, kỳ thủ… Danh từ riêng ví dụ: Hồng, Tản, Chu Văn An, Lê Hữu Trác, Nguyễn Khuyến, Lê Quang Liêm… Về viết thì chính tả quy định: danh từ chung viết thường, còn danh từ riêng viết hoa. Nhiều người không phân biệt được điều này, viết hoa cả danh từ chung như các từ: quốc hội, chính phủ, thủ tướng, đại học…

Tiếng Việt là ngôn ngữ sử dụng nhiều ở Việt Nam, chứ không phải là sử dụng duy nhất ở Việt Nam. Và không phải người sử dụng tiếng Việt nào cũng là người Việt Nam, cũng yêu nước Việt Nam, yêu đảng nên tất cả chúng ta (những người viết) không được cục bộ hóa, quốc gia hóa tiếng Việt. Không một cá nhân hay tổ chức nào có quyền độc tôn chiếm hữu tiếng Việt, coi đó là của riêng mình – lưu ý tiếng Việt khác chữ Việt.

Quốc hội Việt Nam không phải là duy nhất trên thế giới, nên từ “quốc hội” không phải là danh từ riêng, cho nên không phải viết hoa. Ngay cả trong đất nước Việt Nam, thì thời đệ nhất cộng hòa cũng có quốc hội, thời đệ nhị cộng hòa cũng có quốc hội, thậm chí quốc hội Việt Nam năm 1946 cũng khác quốc hội Việt Nam ngày nay, vậy thì càng không phải viết hoa… Tương tự với các từ: chính phủ, thủ tướng, đại học…

2. Học cách đặt danh từ của Trung Quốc
Tiếng Việt về mặt âm mượn nhiều của tiếng Trung, nên danh từ tiếng Việt cũng mượn nhiều từ tiếng Trung. Điều này làm chúng ta cũng không chuẩn trong cách đặt ra danh từ và sử dụng danh từ, vì chính từ gốc – người Trung Quốc làm việc này với tiếng Trung cũng không chuẩn. Họ thường sử dụng tính từ làm danh từ, người Việt máy móc học theo dẫn đến lỗi: lặp lại từ cùng nghĩa giữa danh từ riêng và danh từ chung.

Ví dụ: Trường Giang là tên của con sông dài nhất Trung Quốc, nhưng “trường giang” cũng có nghĩa là “sông dài”. Trong hai từ này thì “trường” là “dài” và “giang” là “sông”. Người Việt Nam coi “Trường Giang” là danh từ riêng, nên chúng ta thường sử dụng là: sông Trường Giang – viết như thế dịch ra nghĩa tiếng Việt thì sẽ là: sông dài sông. Các danh từ khác của tiếng Trung: Hoàng Hà, Đà Giang, Thái Sơn, Tung Sơn, Hoa Sơn…

Việt Nam cũng học cách đặt tên sông núi của người Trung Quốc: sông Hồng (Hồng Hà), sông Đà (Đà Giang), Trường Sơn, Hoàng Liên Sơn, Ngũ Hành Sơn, Tây Côn Lĩnh… Lưu ý: âm “hồng” (màu sắc) tiếng Trung dịch sang tiếng Việt có nghĩa là “đỏ” chứ không phải màu “hồng”. Ví dụ: hồng kỳ là cờ đỏ, hồng quân là quân đỏ. Mượn tiếng Anh cho dễ hiểu: hồng là “red” chứ không phải là “pink”. Trên bản đồ tiếng Anh, sông Hồng là “Red River” chứ không phải “Pink River”.

3. Cách đặt danh từ hạn chế
Một điểm dở khác trong việc đặt ra các danh từ của người Trung Quốc là lấy luôn đặc điểm của sự vật làm danh từ. Ví dụ: Thạch Lâm là một rừng đá mà trong đó, các phiến đá chia lẻ và mọc thẳng đứng cạnh nhau như những cái cây của rừng cây gỗ. Chính vì đặc điểm đó, người ta mới gọi nơi đó là rừng đá (Thạch Lâm). Sẽ ra sao nếu có thêm một rừng đá khác? Ta cần đặt tên (danh từ) riêng cho các rừng đá để phân biệt chúng với nhau.

Việc gọi rừng đá là Thạch Lâm chả khác nào việc, sinh ra một đứa con và đặt tên nó là con. Đến khi sinh thêm một đứa nữa, khi gọi “con ơi” thì hai đứa sẽ bối rối không biết bố mẹ đang gọi ai. Việt Nam cũng học theo cách này và có cách danh từ kiểu này như: nhà thờ đá, nhà thờ lớn, nhà hát lớn… Ngay cả cái tên sông Hồng, sở dĩ gọi như vậy là do nước sông có màu đỏ – nhiều phù sa. Sẽ ra sao nếu nước sông Hồng không còn phù sa – đỏ – nữa?

Người Trung Quốc dở ngay cả trong cách đặt tên nước của họ: Trung Hoa – trung tâm đẹp đẽ. Người Trung Quốc xưa coi nước mình là trung tâm và đẹp nhất, những đất nước xung quanh chỉ là man di, mọi dợ… Ngày nay ta đều biết trái đất hình cầu và chả có đất nước nào là trung tâm cả. Muốn ở trung tâm, chỉ còn cách chui vào lõi trái đất. Trong đó thì rõ ràng là đẹp rồi. Hiện nước “trung tâm” đang bị một nước “man di” tên là Hoa Kỳ ép cho lòi tù và.

Lời kết
Ngay cả từ “trái đất” người Việt Nam đặt tên cho hành tinh của loài người chúng ta cũng có vấn đề. “Trái” ở đây hiểu là “quả”, còn “đất” là – người xưa theo thuyết Ngũ Hành – một trong năm thành tố cấu tạo lên mọi thứ (vật chất) xung quanh ta (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Trái đất tiếng Trung là “địa cầu” – khối cầu hình tròn bằng đất – nay ta đều biết “trái đất” có rất nhiều đá, chai nhựa và túi nilon. Vậy từ “trái đất” như là từ “hành tinh” và không cần viết hoa.

Và tên của đất nước ta: Việt Nam – chữ Trung 越南 – tôi thấy cũng có hàm ý như là: “vượt về phương nam”. Vì từ Việt (chữ Trung: ) đọc âm là việt (hay hoạt) tiếng Trung nghĩa là: vượt qua, vượt quá… Việt vị: vượt qua vị trí cuối cùng của hàng hậu vệ đối phương. Còn từ Nam (chữ Trung: ) là phương nam, hướng nam… Có người nói từ Việt là tên của một hay nhiều dân tộc (Bách Việt), tôi thấy các dân tộc này đều ở phía nam của Trung Quốc.

Hình đại diện của Không hiểuGiới thiệu Thành
Người kể chuyện

One Response to Danh từ

  1. Hình đại diện của Justin Justin says:

    Hay! Cảm ơn tác giả!

    Thích

Gửi phản hồi cho Justin Hủy trả lời

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.