Xã hội học về nhà cao tầng
04/06/2018 Bình luận về bài viết này
Nhà cao tầng hay cao ốc dành cho dân cư mà gọi là “chung cư” là không đúng. Âm “chung” trong tiếng Việt trùng với âm “chung” của tiếng Hán. Âm “chung” trong tiếng Việt nghĩa là cùng, cùng nhau; còn âm “chung” trong tiếng Hán – nếu viết là 終 – thì nghĩa là hết, cuối cùng… Thủy chung là từ đầu đến cuối, chung cuộc là cuối cùng, chung kết là cuối cùng kết lại…
Vậy thì “chung cư” nghĩa đúng là “nơi ở cuối cùng”, cách gọi này không hề phù hợp. Ta đem một âm tiếng Việt – “chung”- ghép với một âm của tiếng Hán -“cư”- thành từ ghép “chung cư” lai căng và vô nghĩa. Người Việt Nam vốn bản tính dễ dãi, không xét nét, cứ dùng nhiều dùng bừa thành quen. “Chung cư” – người Việt Nam hiểu là “nơi ở chung của nhiều người”, từ gọi đúng phải là “ở chung” – rất thuần Việt – nhưng nghe không sang.
1. Nhà của người Việt Nam xưa
Người Việt Nam xưa dân số ít, cho đến đầu thế kỷ 20 mới là 20 triệu người, như một câu thơ của thi sĩ Tản Đà: “Dân hai mươi triệu ai người lớn. Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”. 20 triệu trên diện tích 333 ngàn km2 thì rộng rãi. Người Việt Nam xưa thường xây nhà ba hoặc năm gian – quan niệm xưa là đối xứng – với bếp và nhà vệ sinh cách xa nhà chính – gồm ban thờ, phòng khách và buồng ngủ.
Người Việt Nam xưa thường có thiết kế chung là: ban thờ giữa nhà, hai bên có thể là hai giường ngủ cho người già. Thanh niên mới lớn, dựng vợ gả chồng thì vào buồng trong (bên phải và trái nhà chính). Vì quan niệm của người xưa là hương hồn những người đã khuất sống cùng với con cháu trong gia đình. Cùng với thổ công, hương hồn gia tiên bảo vệ cho con cháu. Vậy nên, quỷ dữ và các linh hồn lai vãng không thể vào nhà ai đó có ban thờ bài bản để quấy phá.
Người thời xưa nấu ăn bằng rơm rạ, lá cây và củi, nên khi nấu ăn khói và mùi thức ăn nhìn chung là bất tiện, gây khó chịu cho người già và em nhỏ, thiệt thòi cho người đầu bếp – thường là phụ nữ. Vậy nên người xưa mới xây nhà bếp xa nhà chính – bao gồm ban thờ, phòng khách và buồng ngủ. Khi việc nấu nướng xong xuôi, bưng mâm cơm thịnh soạn lên mời khách. Chỉ ngửi mùi thức ăn đã thấy ngon miệng rồi. Rất sang trọng!
Ngày xưa cũng chưa có “hố xí tự hoại” và các sản phẩm làm sạch như ngày nay, nên các nhà vệ sinh (xưa gọi là hố xí) phải xây cách xa nhà chính – xa hơn cả nhà bếp – để tránh mùi xú uế. Điều này ở miền Bắc nhìn chung – từ phía bắc đèo Hải Vân trở ra – thì vào ban đêm của mùa đông là nguy hiểm. Vì người già và trẻ em khi đang ở trong chăn ấm ra ngoài trời lạnh để đi vệ sinh là rất nguy hiểm. Không khéo đề phòng có thể bị cảm lạnh, nhẹ thì ốm người, nặng có thể bị mất mạng.
2. Nhà cao tầng hay cao ốc ngày nay
Những vấn đề ô nhiễm trong nhà do nấu nướng hay chất thải ngày nay đã được các công nghệ hiện đại xử lý khá tốt. Cộng với việc thành thị bây giờ đã rất đông do việc di từ nông thôn lên, rồi trung du và miền núi xuống, nên người ta phải xây dựng các nhà cao tầng hay cao ốc cho dân ở – khác với nhà cao tầng làm văn phòng – tại các thành phố lớn của Việt Nam. Điều này, ở Việt Nam là mới, nhưng ở các nước phát triển, chắc đã có đến cả trăm năm. Người ta còn xây dựng cả nhà cao tầng cho ôtô.
Các căn hộ trên các nhà cao tầng hay cao ốc cho dân ở nói chung có ưu điểm là: tất cả các buồng, phòng đều nằm ở cùng một sàn, rất tiện lợi cho người già và em nhỏ, vì không phải leo cầu tháng bộ. Tầng nào – cao đến mấy – cũng có thang máy lên tận nơi, khi bước ra khỏi thang máy là tất cả ở cùng một sàn, trừ những căn hộ cao cấp nhưng những căn đó thường ít dùng cho những người yếu thế. Đây là một ưu điểm lớn và không thể tranh cãi của các căn hộ trên các nhà cao tầng hay cao ốc cho dân ở.
Tuy nhiên, người Việt Nam với “quán tính” lâu đời của mình về nhà ở, người ta không thích nhà cao tầng. Lý do lớn nhất không phải vì vấn đề an ninh, an toàn mà người Việt Nam ghét những sự bất tiện của việc ở chung – sau những kinh nghiệm ở các nhà không cao (5) tầng xây từ thời bao cấp. Những vấn đề chật chội, bất tiện, ồn ào, mất vệ sinh của các tòa nhà thấp tầng cho dân ở thời bao cấp là có thật và là những vấn đề khá nhức nhối.
3. Kết luận
Dù ghét ở nhà cao tầng vậy, nhưng do các bức thiết của cuộc sống, càng hiện đại nhu cầu về sự riêng tư của các cá nhân càng cao, đất nước thì đông đúc, chật chội, khó khăn nên việc dân cư ở các nhà cao tầng tại Việt Nam là việc tất yếu phải làm. Đây là lối tư duy theo thực tế: “nếu không có được điều mình yêu, thì hãy yêu những điều mình có”. Thập niên vừa qua, các tòa nhà cao tầng cho dân ở tại các thành phố lớn của Việt Nam mọc lên như nấm sau cơn mưa.
Tôi chỉ mong mười, hai mươi năm nữa con cháu tôi, khi xây dựng gia đình có phòng tân hôn riêng để ở, không phải sống chung không gian với đại gia đình “tam tứ đại đồng đường”. Vì suy cho cùng, độc lập trong không gian cá nhân sẽ dẫn đến tự chủ, tự quyết trong suy nghĩ, tư tưởng và hành động. Một đất nước mà càng có nhiều người sớm được độc lập, tự chủ ít nhất là về mặt không gian riêng từ nhỏ, thì đất nước đó càng có nhiều cơ hội trở thành nước độc lập, tự chủ, tự quyết trước thế giới.




