Người Việt Nam có văn minh được không?
10/02/2017 Bình luận về bài viết này
Đi ra đường ở thành phố Hà Nội – thủ đô của đất nước – ta sẽ thấy nhiều cảnh “trái tai gai mắt”; nhiều thứ lắt nhắt, vụn vặt thể hiện tầm nhìn thiển cận của cả giới thượng tầng lẫn giới hạ tầng. Nhiều lần như thế khiến tôi tự hỏi: người Việt Nam có văn minh được không?
1. Cơ sở hạ tầng
Đường phố thì nhỏ bằng cái lỗ mũi, xe ôtô thì to như cái ngón tay, đút một ngón vào là chật, hai ngón vào là tắc. Thế rồi tất cả đứng nhìn nhau cười trừ, người lắc đầu người chửi thề. Việt Nam dân số 93 triệu, diện tích 333 ngàn km2, nội thành Hà Nội dân số cỡ 6 triệu, diện tích khoảng 1.000 km2, cũng chưa phải là quá chật.
Hà Nội là thủ đô của Việt Nam từ hơn 1.000 năm trước. Mà trước đây, thành phố được thiết kế chủ yếu cho người đi bộ, gánh hàng rong. Cũng có xe trâu ngựa nhưng ít. Sau này Pháp vào thì có xe kéo và xe đạp, cũng chưa nhất thiết phải mở rộng. Nhưng nay, nhất là sau năm 2018, khi người dân bắt đầu sở hữu ôtô nhiều thì có lẽ chỉ đậu không thôi cũng đủ tắc.
Nhận ra vấn đề cơ sở hạ tầng của thủ đô mà lạc hậu thì không cạnh tranh được với khu vực, nên 10 năm gần đây chính quyền đẩy mạnh mở rộng thành phố. Cả thủ đô như cái đại công trường, ô nhiễm bụi tăng lên đáng báo động. Nhưng khủng hoảng kinh tế níu lại công cuộc này, nhà xây thì nhiều nhưng dân không có tiền mua để ở, xung quanh Hà Nội toàn khu đô thị ma.
2. Văn minh là gì?
Người Việt Nam có văn minh được không? Vậy trước tiên phải hỏi: “Văn minh là gì?”. Là cơ sở hạ tầng hiện đại, là kiến trúc thượng phát triển ở mức cao? Đúng vậy, nhưng nói như thế thì chung chung quá. Cơ sở hạ tầng hiện đại thì dễ đánh giá, còn kiến trúc thượng tầng của ta, ta cứ cho là ở mức cao, kiện toàn đầy đủ, nhưng thực sự có phải vậy? Ta mà cao thì các nước phát triển là thấp?
Tôi cho văn minh là phần lớn người dân phải có năng lực tư duy độc lập. Mọi người phải biết nhận biết, tư duy và phản biện. Chỉ khi có được điều ấy, đất nước mới có cơ hội phát triển đến hồi văn minh. Như hai nước Nhật Bản và Đức sau thế chiến hai, cơ sở hạ tầng của họ tan hoang, nhưng nhờ năng lực tư duy và kinh nghiệm quản lý, họ đã phục hồi đất nước của mình rất nhanh.
Phần lớn các nước giàu có sau thế chiến hai đều làm ăn với Mỹ. Châu Âu có kế hoạch Marshall, Nhật Bản thì được Mỹ kiến thiết lại và nhờ có chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc thì cũng được nước Mỹ ưu đãi nhiều. Từ khi đổi mới 1986, 30 năm nay lượng tiền mặt đổ vào Việt Nam cũng không ít. Nhưng chúng ta cứ “mãi không chịu lớn” như lời nhận xét của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan.
3. Thời vụ, chộp giật
Người Việt Nam từ thượng tầng đến hạ tầng đều thiển cận. Bước ra từ khó khăn, thể chế lại sai lầm nên cán bộ tư lợi đường cán bộ, dân thường chộp giật đường dân thường. Cuộc sống trước đây khó khăn quá nên giờ đất nước có một chút là ăn bớt. Ai cũng tìm cách tư lợi, đút túi của mình. Nông dân lên làm lãnh đạo thì tầm nhìn vẫn chỉ là nông dân. Con chuột không thể có lá gan sư tử.
Đại đa số dân chúng tầm nhìn ngắn. Mở quán nước chè thì bán chè bẩn chè vụn, uống vào vừa “tụt cảm xúc”, vừa hại người… Mở quán phở thì nước dùng toàn mì chính và bột nêm, chẳng phải nước hầm xương bò. Người Hà Nội xưa vốn gọi là dân kẻ chợ, tức là người ta khôn lắm, tuy có “ngây thơ” với thế giới, nhưng chuyện tiểu tiết thì họ lại rất khôn. Ăn, uống một lần ở những nơi dở, thì lần sau còn lâu họ mới đến.
Hai mức tầm nhìn “cao” và “thấp” đó đều thiển cận, thì lấy đâu đất nước phát triển? Đến một đất nước, mọi thứ khôn ngoan của họ đều hiện ra mặt đường. Từ tầm nhìn lãnh đạo đến trình độ dân trí. Một đất nước lạc hậu như Việt Nam, những thứ ấy cũng hiện hết ra Hà Nội. Các con đường nhỏ bé và không bằng phẳng. Rác dưới đất, trên tường, trên trời tràn ngập. Ô nhiễm không khí, nước, âm thanh, thực phẩm… Ô nhiễm cả đạo đức!
4. Thiếu nhà tư tưởng
Mục đích cao nhất của việc học, suy cho cùng, là để giải quyết việc giao tiếp giữa con người với con người. Anh chị cứ nói là anh hiểu biết, cứ cho là vậy đi, nhưng anh chị chỉ nói chuyện được với những người trong giới của mình. Còn khi gặp người giới khác, ngành nghề khác, giai cấp khác thì các anh các chị tịt ngóp. Người hiểu biết là người gặp cả tổng thống và ăn mày họ đều nói chuyện được. Hơn thế, ai nói chuyện với họ cũng dễ chịu, kể cả là một tên tội phạm. Vì họ hiểu người đối thoại.
Nói chuyện với người hiểu biết một giờ bằng ba năm đọc sách. Điểm yếu của người Việt Nam là thiếu người hiểu biết đạt tới tầm nhà tư tưởng và người dân lười đọc. Đọc ở đây không nhất thiết phải là đọc sách, mà là đọc báo (không phải tin nhanh), đọc ở cuộc sống… Nền giáo dục cung cấp thông tin một chiều làm người Việt Nam thiển cận, không có năng lực tư duy, phân tích, phản biện… Trước đây bị dẫn dắt bởi tư duy bao cấp, thậm chí bao cấp cả tư tưởng, nên phần lớn người Việt Nam sống thụ động với tâm lý trông chờ, ỉ lại vào cấp trên.
Chỉ những nhà tư tưởng mới dẫn dắt một đất nước, một xã hội đến hồi văn minh, chứ không phải các chính trị gia hay các giáo chủ. Vì chính trị thì thủ đoạn quá, mà tôn giáo thì từ bi quá. Socrates, Kant làm châu Âu văn minh chứ không phải Alexandros, Caesar. Khổng tử, Lão tử dẫn dắt tư tưởng người dân Trung Hoa chứ không phải Tần Thủy Hoàng hay Chu Nguyên Chương. Điểm yếu của Việt Nam là thiếu các nhà tư tưởng. Chính trị gia thì còn yếu hơn nữa – họ hoang dã!
Thay lời kết
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến chỉ giỏi tiếng Nôm chứ không giỏi toàn diện. Nguyễn Bỉnh Khiêm (Tuyết Giang phu tử), Nguyễn Thiếp (La Sơn phu tử), Lê Quý Đôn chỉ là các nhà chính trị, chiến lược và khoa học thuần túy. Họ chưa đào sâu suy nghĩ đến tận cùng lí lẽ của vạn vật, để đạt tới tầm nhà thông thái. Người Việt Nam vất vả quá khi đấu tranh với (sự hung dữ của) thiên nhiên và giặc ngoại xâm, thành ra không có ai thảnh thơi suy tư để đạt tới mức nhà tư tưởng.
Sau khi cả nước hết tâm lý thời chiến tranh vào năm 1984, đổi mới kinh tế vào năm 1986, kết nối với mạng toàn cầu (internet) được mở rộng ra xã hội vào năm 2000, kết nối nền kinh tế với thế giới vào năm 2007, xã hội Việt Nam mới “bừng tỉnh” và “trăm hoa đua nở”. Những cá nhân sinh ra năm từ khoảng năm 1975 đến năm 1990 có cơ hội học tập để trở thành “nhà tư tưởng”. Nếu vài năm nữa Việt Nam lại có chiến tranh, thì không có cơ hội cho những người sinh sau năm 1990.
Vậy người Việt Nam có văn minh được không? Xin thưa là có, nhưng rất chậm. Đà truyền thống văn hóa lạc hậu của người Việt Nam quá lớn, cộng với chính sách sai lầm làm chúng ta không “bứt tốc” được. Những “nhà tư tưởng” vừa ít, lại vừa bị hạn chế tiếp xúc với công chúng, thành ra họ không giúp được nhiều. Chỉ khi đất nước thực sự dân chủ, chính quyền tin dùng người tài và kinh tế phát triển đạt tới tầm “người dân được thảnh thơi suy nghĩ”, thì Việt Nam mới tiến nhanh đến hồi văn minh.




