Chống chếnh sau tết
01/02/2014 Bình luận về bài viết này
Cứ sau tết Âm Lịch là tôi lại có cảm giác chống chếnh. Hồi trước tết dài, nên mùng bốn, mùng năm tôi mới có cảm giác này. Bây giờ không có tiếng pháo, cuộc sống đầy đủ hơn và thương mại hóa nên ai cũng cảm thấy tết ngắn hơn, thành ra mồng một, mồng hai tôi đã có cảm giác đó.
Chống chếnh không phải là do thiếu cảm xúc. Ngược lại, tết được gặp gỡ anh em, bạn bè, cảm xúc đầy đủ, thậm chí thừa thãi. Tết là cuộc chiêu đãi các ngũ quan, mắt được nhìn các thứ đẹp, miệng được ăn các thứ ngon, tai được nghe các mỹ từ… Nhưng chính những điều đó làm ta chống chếnh.
Tết cũng là khi tâm trí và thể xác được nghỉ ngơi. Thật vậy, tết Âm Lịch ở Việt Nam nghỉ dài, rảnh rỗi cả thể xác lẫn tâm hồn, người ta có thể suy nghĩ đến những điều xa xôi. Tết là thời gian để triết lý, là một chuyến “đi hoang” về tư tưởng. Điều đó cũng làm ta thấy chống chếnh, nếu không được ở bên tri kỷ.
***
Sáng mùng hai, tự dưng tôi muốn đi vòng vòng một chút nên xe chạy qua Nam Trấn – đền Kim Liên. Từ lâu tôi đã dự định qua Nam Trấn, vì tôi là người từ phương Nam đến Hà Nội. Muốn qua đây, trước là để báo cáo thần là con đến đây sống, mong thần che chở trước các thế lực âm binh đất này; sau là mong thần phù hộ cho con trấn hay hưng được cái gì đó.
Thế mà 15 năm mới qua được. Thực ra, dăm năm trước tôi mới biết đến Trấn Nam và Thăng Long Tứ Trấn. Xin cáo lỗi với Cao Sơn đại nhân! Vào Nam Trấn không phải mua hương. Người ta để sẵn hương cho mọi người, ai muốn thắp thì thắp. Ở đền một lát, tôi thấy ngán ngẩm với văn hóa đi đền của một số người.
Thứ nhất, đi đền chùa thì vào phải vào ở cửa bên phải, ra ở cửa bên trái. Đây người ta thích vào cửa nào thì vào, ra cửa nào thì ra. Có người còn vào, ra bằng cửa chính (giữa), cửa chỉ dành cho những ngày lễ, hoặc quan chức cấp cao đương thời mới được đi. Thần biết con cháu chúng nó láo vậy, thần có phạt không.
***
Thứ hai, trong đền đã có biển ghi “bỏ tiền công đức vào hòm”, nhưng người ta cứ tiện đâu nhét đấy, nhét lung tung… Không hiểu các đấng siêu nhiên thần thông quảng đại, pháp thuật vô biên, hô phong hoán vũ như vậy, cần chút ít tiền lẻ của họ để làm gì?
Thứ ba, vẫn có những cô nàng mặc váy ngắn cũn cỡn vào đền. Không hiểu các cô mặc thế vào đền để làm gì? Khoe chân thì có ai đến đền để nhìn chân. Mấy cô tính làm xao lãng lòng tôn kính của các đấng nam nhi? Mấy cô muốn làm giảm linh thiêng của Thăng Long tứ trấn?
Thứ tư, ở trên các bức hoành phi, đại tự, câu đối, chữ viết là những chữ gì, tôi không biết. Người ta cứ vào vái vái, lạy lạy thứ mà người ta không hiểu. Chữ ở trong các đền Việt Nam là chữ mà đa số người dân không đọc được. Thế nên mới có chuyện, rất nhiều người Việt Nam đi đến đền mà không biết đền đó thờ ai, và công lao của ngài là gì.
***
Cảm thấy mất hứng, tôi ra lấy xe chạy lên Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Chỉ định chạy qua đó thôi, chứ không định vào. Văn Miếu là nơi thờ Khổng Tử, Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của Việt Nam mà cũng chán, cảm giác chống chếnh của tôi lại tăng thêm nữa.
Phố Văn Miếu, bên này đường là các ông đồ – đội khăn xếp, mặc áo the – trang nghiêm cho chữ, bên kia đường là khách du lịch Tây – mặc áo ba lỗ và quần soóc – ngồi uống bia tu chai. Các ông đồ, ông thì viết tiếng Hán (hay Nôm tôi chẳng biết), ông thì viết tiếng Việt uốn lượn… Hy vọng các thày không viết lung tung.
Một đất nước lai căng, chẳng có trật tự nào, chữ nghĩa thì nửa Tây nửa Tàu, chính trị thì nửa đóng nửa mở, kinh tế thì nửa bao cấp nửa thị trường, lãnh đạo thì nửa cấp tiến nửa bảo thủ, nửa thân Trung Quốc nửa gần phương Tây… Dân trí thì nửa cao nửa thấp, thanh niên nửa già dặn nửa bốc đồng, học thuật nửa hàn lâm nửa vỉa hè… Hết kiên nhẫn, tôi quay về – thà chống chếnh còn hơn trống rỗng.
***
Về qua tổ đình Phúc Khánh gần ngã tư Sở, tôi thấy người xe đông đúc, đậu kín đường… Tết ở Hà Nội có ba điểm mọi người đến nhiều nhất là Phủ Tây Hồ, Văn Miếu – Quốc Tử Giám và Tổ đình Phúc Khánh. Muốn cầu danh vọng, tiền tài thì ra đền cầu thần, cầu thánh. Muốn cầu bình an, con cái thì lên chùa cầu Phật.
Còn Thủ Tây Hồ là thờ công chúa Liễu Hạnh – một trong tứ bất tử. Bà tượng trưng cho tình yêu thơ ca văn phú của người Việt. Không hiểu đền thờ Chử Đồng Tử -Tiên Dung thì ở đâu – ông và bà tượng trưng cho lòng mưu cầu hạnh phúc. Tứ bất tử của Việt Nam không có đủ ở Hà Nội.
Thôi không tìm niềm vui ở ngoài đường, tôi về tìm lấy niềm vui nơi mình. Tôi về đun lấy ấm nước sôi, pha ấm chè nóng, rót chè ra cho hơi nghi ngút, hương tỏa khắp phòng. Nhấp một hớp cho vị chát, rồi ngọt thấm đậm vào tim… Độc ẩm, đối thoại với mình, với quá khứ, hiện tại và tương lai… Tết là chỉ muốn ở bên người tri kỷ.




