Thay đổi ở Việt Nam đến từ đâu?

Vì sao Liên Xô sụp đổ, khối liên minh các nước XHCN tan rã, các nước đông Âu chuyển sang chế độ đa nguyên – thân phương Tây – nhưng Trung Quốc và Việt Nam vẫn đứng vững?

Vì sao phòng trào “Mùa xuân Arab”, phong trào làm thay đổi chế độ ở hàng loạt các nước Trung Đông, Bắc Phi không lan sang châu Á, đến Trung Quốc và Việt Nam? Xin thưa, vì Trung Quốc và Việt Nam rất khác so với phần còn lại của thế giới.

Tổ chức xã hội, truyền thống văn hóa và tâm lý người dân hai nước Trung Quốc, Việt Nam rất khác so với thế giới. Chính vì sự khác biệt này nên Mao Trạch Đông và Hồ Chính Minh, khi áp dụng chế độ cộng sản vào Trung Quốc và Việt Nam, đã phải thay đổi chủ thuyết trên cho phù hợp với thực tế tình hình.

Dù tên nước của Trung Quốc và Việt Nam đều bắt đầu bằng hai từ “cộng hòa”, nhưng ở đây chưa bao giờ có chế độ cộng hòa đúng nghĩa. Bởi nếu đúng nghĩa của hai từ “cộng hòa” thì phải là phổ thông đầu phiếu, dân chủ đại nghị và tam quyền phân lập. Đất nước nào mà hiến pháp còn ghi một tổ chức có quyền cao hơn quốc hội – tổ chức do dân bầu ra – thì đất nước ấy không phải là đất nước theo chế độ cộng hòa.

Về phong trào “Mùa xuân Ả rập”

Bước ngoặt dẫn đến việc thay đổi chính quyền ở các nước Trung Đông, Bắc Phi không đến từ việc các chính quyền tự diễn biến hay sự đấu tranh của các phong trào cấp tiến, mà đến từ sự tác động của phương Tây. Họ đã cài ém lực lượng, ngầm tài trợ cho các tổ chức đối lập ở đây từ lâu. Khi cần có sự thay đổi, họ sử dụng lực lượng này kích động người dân. Tổ chức xã hội, truyền thống văn hóa và con người của những nước này cho phép phương Tây làm được điều đó.

Xem lại lịch sử thì xung đột giữa phương Tây và các nước ven bờ Địa Trung Hải diễn ra từ rất lâu rồi. Từ Alexandros Đại đế cho đến Rome. Từ các cuộc thập tự trinh được đánh số từ một cho đến mười mấy. Tức là, ý định can thiệp để làm suy yếu các nước ven bờ Địa Trung Hải từ Châu âu đã có từ rất lâu rồi. Phong trào “Mùa xuân Ả rập” chỉ ghi thêm một thành công nữa của họ mà thôi. Tuy nhiên, họ chỉ thành công ở những nước có chế độ là độc tài cực đoan.

Điều kiện tự nhiên

Khí hậu, địa hình làm cho tài nguyên thiên nhiên, sản vật ở Trung Quốc và Việt Nam rất khác so với Trung Đông và Bắc Phi. Điều này làm cho cấu trúc xã hội ở hai nước này cũng khác với các nước Bắc Phi, Trung Đông. Ở đây chế độ độc tài cực đoan rất khó hình thành.

Ở các nước Trung Đông, Bắc Phi tài nguyên chủ yếu là dầu mỏ. Muốn khai thác được cần đầu tư cơ sở hạ tầng và công nghệ tốn kém. Những đơn vị khai thác chủ yếu là của chính quyền, nên lợi nhuận thu được phần lớn nằm trong tay một số người. Điều này làm cho họ có rất nhiều quyền lực. Họ ban phát lương thực và dân chủ một cách hạn chế. Đặc quyền quá lớn dễ dẫn đến độc tài. Độc tài cực đoan luôn ẩn chứa nhiều nguy cơ bất ổn. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho cách mạng xuất hiện thay đổi chính quyền.

Tài nguyên ở Trung Quốc và Việt Nam lại khác. Phương Đông khí hậu ôn hòa, sản vật phong phú. Nhiều loại trái cây, sản vật đa dạng, phong phú trải dài trên toàn quốc. Rồi ruộng đồng “cò bay thẳng cánh”. Người dân có thể tự chủ được về lương thực, thực phẩm… Họ ít phải đấu tranh, bức xúc vì các nhu cầu thiết yếu. Vì trù phú nên nhiều người dân sống đầy đủ, thậm chí thừa thãi, chính quyền trung ương không thể quản lý được hết. Độc tài tuyệt đối khó hình hành hơn. Thiên nhiên ưu đãi làm cho chế độ chuyên chế ở Trung Quốc và Việt Nam có thể tồn tại được lâu hơn.

Lịch sử phương Đông cho thấy, các cuộc khởi nghĩa lật đổ chính quyền ít đến từ sự suy thoái của chính quyền trung ương, mà đến từ thiên tai, dịch bệnh, mất mùa… “Bần cùng sinh đạo tặc”. Người dân đói khổ phải đi trộm cướp. Từ đó giặc dã nổi lên. Giặc đủ mạnh sẽ lật đổ chính quyền, lập nên vua mới.

Điều gì làm chậm quá trình thay đổi?

Năm 1986, đại hội VI của đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang hàng hóa nhiều thành phần (*). Đây có thế nói là một sự đổi mới kịp thời, có tính bước ngoặt giúp đảng giữ được uy tín, từ đó duy trì được quyền lực.

Một thế mạnh khác của đảng là họ đã thành công trong việc đánh đồng giữa yêu nước và yêu đảng. Thời chiến họ nhận mình là chính nghĩa, điều này làm cho các đảng phái khác là phi nghĩa. Đánh đuổi giặc ngoại xâm ở Việt Nam qua bao đời luôn là chính nghĩa. Việt Nam là một nước ngàn năm mang phận chư hầu, phải chống giặc ngoại xâm . Đánh giặc giữ nước là một trong bốn truyền thống đặc trưng của người Việt.

Hòa bình lập lại, nhiệm vụ của đảng chuyển từ đánh giặc sang làm kinh tế. Họ lạ lẫm với nhiệm vụ này. Họ đưa ra các chính sách kinh tế sai lầm làm cho nền kinh tế kiệt quệ. Uy tín của đảng bị giảm sút nghiêm trọng. Họ đã thất bại!

Những người lính từ chiến trường trở về chưa quen được với thời bình đã phải bon chen trong cuộc sống hàng ngày, họ chán ngán. Rất nhiều người xin ra khỏi đảng. Tuy nhiên, sự thành công của công tác tuyên truyền làm cho họ luôn nghĩ rằng đảng đúng, bằng chứng hùng hồn nhất là đảng đã lãnh đạo họ hai cuộc chiến thành công. Họ vật vã giữa niềm tin và thực tế. Không dám nói đảng sai lầm, mà chỉ dám nói – gián tiếp – mô hình bao cấp, tập trung không phù hợp trong thời bình.

Mặt khác, hai cuộc kháng chiến đã thu hút gần như toàn bộ nhân dân miền Bắc. Hầu hết các gia đình đều bị thiệt hại về người. Thương bệnh binh thì nhiều vô kể. Tính nghiệt ngã của cuộc chiến còn là, tiêu diệt đi rất nhiều lực lượng tinh anh của đất nước. Những người đàn ông chân chính và ưu tú. Đất nước bị xâm phạm làm họ phải ra trận. Không có sự lựa chọn nào. Trên thế giới, ở đâu và thời nào cũng vậy.

Người lính đi chiến đấu vì nghĩ rằng đi đánh đuổi ngoại xâm, trong trận chiến họ chết vì nhau nhiều hơn là vì lý tưởng cộng sản. Một lý tưởng công bằng mơ hồ, mà sau này 10 năm bao cấp đã chứng minh nó là không tưởng. Chính niềm tin sót lại trong thời kỳ chiến đấu đã ngăn họ tham gia vào lực lượng đấu tranh đòi hỏi dân chủ hay đổi mới. Niềm tin vào đảng trong hai cuộc chiến là đúng đắn, vì khi ấy đảng đại diện cho giới tinh anh của đất nước, nhưng niềm tin vào đảng khi hòa bình lập lại là sai lầm.

Với truyền thống văn hóa và trình độ dân trí, đa phần người dân Việt Nam vẫn cần một hình bóng lãnh tụ – mà theo họ là – anh minh. Họ cần một thủ lĩnh tinh thần để nương tựa. Đây chính là lý do chính quyền mãi duy trì hình ảnh Hồ Chí Minh trong lòng dân chúng.

Thay đổi đến từ đâu?

Nguyên nhân thứ nhất: đảng tự diễn biến. Điều này gần như là không thể. Chẳng ai tự chặt tay của mình. Việc liên tục đưa các thái tử đỏ vào tầng lớp kế cận cho thấy đảng vẫn mong muốn duy trì chế độ này dài lâu. Thời gian vừa qua sinh hoạt chính trị được mở rộng, một vài trí thức trong đảng, trong quốc hội đã dám đấu tranh gay gắt hơn, trực diện hơn nhưng tôi không tin họ tạo ra được sự thay đổi. Số trí thức này hy vọng qua đấu tranh, họ sẽ thức tỉnh được lương tri, trách nhiệm lịch sử của những người chuyên quyền. Nhưng đó là điều không tưởng!

Nguyên nhân thứ hai: hào trưởng dựng cờ. Lịch sử Trung Quốc và Việt Nam cho thấy:

1. Các cuộc khởi nghĩa được dựng lên bởi các hào trưởng. Đó là những người có quyền lực nhất định và ở xa chính quyền trung ương. Những hào trưởng này thường là những người yêu nước, thương dân, có tiềm lực và tham vọng. Hào trưởng nào có uy tín nhiều hơn sẽ thu hút được đông tham gia dưới cờ hơn. Có không ít các cuộc khởi nghĩa thành công. Còn ở những cuộc khởi nghĩa thất bại, các hào trưởng cũng gây ra được không ít khó khăn cho chính quyền trung ương.

2. Những lần binh biến thường được khởi xướng bởi các tướng lĩnh nắm trong tay quân đội, có tham vọng chính trị. Từ sau bài học độc tài Stalin ở Liên Xô, chính quyền các nước cộng sản luôn hạn chế sự lớn mạnh của “quyền lực quân đội” trong đảng. Ngược lại, họ tăng cường sự kiểm soát của đảng đối với quân đội. Cho nên các tướng lĩnh Việt Nam có rất ít, nếu không muốn nói là không thể có cơ hội làm một cuộc binh biến.

Vậy thay đổi chỉ có thể đến từ một cuộc khởi nghĩa.

Nhưng có hai nguyên nhân chính làm Việt Nam khổng thể có được một cuộc khởi nghĩa đó là:

1. Lực lượng an ninh quá tốt, và 2. Đất nước chưa xuất hiện một hào trưởng có tham vọng chính trị.

Qua những lần bắt bớ đại gia từ năm 1990 đến nay cho thấy, những đại gia ở Việt Nam đều là xã hội đen hoặc cơ hội chính trị. Xã hội đen thì không nói làm gì, còn những kẻ cơ hội chính trị, những bọn làm giàu từ cơ chế chính sách, tài nguyên khoáng sản của nhà nước thì chúng cần gì thay đổi chính trị? Chúng còn muốn duy trì chế độ để kiếm trác được nhiều hơn nữa. Chính bọn này làm chậm quá trình đổi mới kinh tế và mở rộng dân chủ. Lúc chiến tranh thì hèn nhát, về thời bình thì xu phụ, nịnh trên nạt dưới, bòn rút ngân sách, hút máu nhân dân.

Gần đây, khi kinh tế đất nước phát triển, xuất hiện một tầng lớp giàu có do buôn bán bất động sản, chứng khoán, ngân hàng… Những tưởng đây là điểm đáng mừng, kỳ thực thì bọn này chỉ là bọn trước đây đã từng khai thác tài nguyên khoáng sản theo kiểu tận diện. Nay tài nguyên đã cạn kiệt, chúng chuyển sang kiếm tiền theo hình thức mới, sử dụng thủ đoạn kinh tế phi pháp để thao túng thị trường rồi trục lợi. Ta không thể mong chờ gì ở bọn này trong công cuộc đấu tranh dân chủ. Chính đảng cũng không trông chờ được gì ở chúng trong xây dựng đất nước.

Vậy chế độ ở Việt Nam chỉ thay đổi trong ba trường hợp: 1. Thiên tai gây mất mùa ở hai đồng bằng hai đầu đất nước, 2. Trung Quốc sụp đổ, và 3. Tự diễn biến. Trường hợp có một hào trưởng có hùng tâm, hùng chí đứng lên khởi nghĩa lật đổ không thể có trong ít nhất 20 năm nữa vì, 1. Kinh tế nhà nước vẫn là chủ đạo, 2. Đại gia bị soi rất kĩ, manh nha chút là bị ‘đánh án’ liền. Cho nên, người Việt Nam cứ chờ đi…!

Chú thích:

(*) – “Đổi mới để tránh nguy cơ sụp đổ” bài của Tống Văn Công, cựu tổng biên tập báo Lao động.

Hình đại diện của Không hiểuGiới thiệu Thành
Người kể chuyện

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.