Cờ nào đánh giá đúng sức mạnh tượng binh?
11/04/2021 Bình luận về bài viết này
Một người bình thường khi làm bất cứ việc gì, thì việc đó sẽ có hai đặc điểm: 1. Có mục đích và 2. Có cơ sở. Điểm thứ nhất, có mục đích, ở đây hiểu là tôi làm việc này để làm gì, với mục đích gì? Điểm thứ hai, có cơ sở, ở đây hiểu là người ta sẽ giải thích được vì sao hay căn cứ vào đâu mà người ta lại làm như thế. Theo cách nói hàn lâm thì là, cơ sở nào hay căn cứ vào đâu để anh làm như vậy? Còn theo cách nói dân dã thì là, tại sao anh lại làm như thế?
Trong hoạt động sáng tạo mà nói, thì sáng tạo ra cờ là tạo ra sân chơi cho các kỳ thủ đấu trí. Bài viết này tôi sẽ dự đoán về, những căn cứ để các tác giả – của các loại cờ – đưa ra nước đi cho con tượng trong cờ của họ. Lưu ý, tên gọi và việc quy ước quân tượng trong các loại cờ ở các nước là khác nhau, như tượng là con voi, giám mục, gã khùng, người chạy, giám binh, quý tộc… Quý vị hãy đánh giá xem, quân tượng của loại cờ nào mô phỏng đúng sức mạnh của tượng binh trên chiến trường.
1. Tượng cờ Chaturanga và cờ Shatranj

Tác giả cờ Chaturanga có lẽ có một nguyên tắc trong việc đưa ra nước đi cho các quân cờ đó là, những loại quân khác nhau có nước đi khác nhau. Điều này nhằm đa dạng loại quân và đa dạng sức mạnh trên bàn cờ, cũng là tạo ra các loại quân kỵ dơ nhau. Về nước đi thẳng thì đã có quân xe (chiến xa) đi được đến tất cả mọi nước, đi một ô thì đã có quân vua và quân tốt. Về đi chéo thì đi chéo một ô đã có quân vua và quân cố vấn, nên có lẽ tác giả cờ Chaturanga để tượng được đi chéo hai ô và không bị cản.
Về căn cứ thực tế, thì việc chiến đấu của tượng binh là các binh sĩ ngồi trên lưng voi lao giáo và bắn cung xuống dưới, nên đi chéo hai ô và không bị cản về cơ bản đã mô tả được một phần sức mạnh của lực lượng này, nhưng tượng binh còn mạnh hơn rất nhiều. Theo người viết thì tác giả cờ Chaturanga đã bỏ qua sức chiến đấu của con voi chiến, đó là dùng vòi quật, ngà húc và chân dẫm lên quân thù, để phá đội hình và tiêu diệt đối phương. Với sức khỏe và vóc dáng của mình, voi chiến gây khiếp sợ cho quân thù.
2. Tượng cờ Sittuyin và cờ Makruk

Do hai loại cờ Sittuyin và cờ Makruk kế thừa từ loại cờ cổ Chaturanga, nên về cơ bản các loại quân của chúng kế thừa nước đi của cờ Chaturanga. Người Miễn Điện và người Thái Lan chỉ sửa nước đi của quân tượng và họ sửa rất khác so với tượng của cờ Chaturanga. Lưu ý, cờ Sittuyin quy ước tượng là con voi, cờ Makruk quy ước tượng là nhà quý tộc.
Người viết cho rằng, người Miễn Điện và người Thái Lan có vẻ như căn cứ vào sức mạnh tự nhiên của con voi để đưa ra nước đi cho quân tượng trong loại cờ của họ. Voi đi được một ô sang năm ô bên cạnh bao gồm ba ô phía trước và hai ô chéo phía sau (xem hình), tượng trưng cho voi chiến lấy vòi quật, ngà húc và dùng chân giẫm đạp lên quân thù.
Tuy nhiên, tác giả của cờ Sittuyin và cờ Makruk lại không tính đến việc, sức chiến đấu của tượng binh còn bao gồm cả các binh sĩ ngồi trên lưng voi. Họ lao giáo và bắn cung xuống dưới rất mạnh mẽ. Nếu không tính đến yếu tố này, thì sẽ không đánh giá đúng sức mạnh tượng binh và không mô tả đúng sức mạnh đó trên cờ.
3. Tượng cờ vua hiện đại (Cờ quốc tế – Chess International)

Cờ vua hiện đại người châu Âu sửa tên gọi, quy ước và nước đi của tượng của hai quân cờ là quân hậu và quân tượng rất nhiều. Tượng đáng lẽ họ cần phải gọi là con voi và quy ước là tượng binh, thì họ lại gọi nó là giám mục, gã khùng, giám binh trong ngôn ngữ các nước và dĩ nhiên, họ cũng quy ước quân cờ theo các cách gọi đó của họ.
Nước đi của tượng trong cờ vua hiện đại là đi (và ăn) chéo vô biên cho đến khi gặp quân cản. Người châu Âu đưa ra nước đi này có thể là do chức vụ đó trong quân đội là một người di chuyển nhiều, có chức năng liên lạc, kết nối thông tin trên chiến trường, cùng với đó là tham mưu, hỗ trợ người chỉ huy đưa ra các quyết định đúng đắn.
Về cơ bản, với tên gọi và sự quy ước đó thì nước đi (chéo vô biên) của quân tượng trong cờ vua hiện đại là hợp lý và khá nhất quán. Tuy nhiên, với sự thay đổi đó thì người châu Âu đã không tôn trọng bản quyền của tác giả cờ Chaturanga, khi người ta vốn quy ước con tượng là con voi và đại diện cho lực lượng tượng binh trên chiến trường.
Cũng dễ hiểu thôi vì ở châu Âu không có loài voi, do điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng ở châu Âu không phù hợp cho loài voi sinh sống. Vì không có voi nên tất nhiên họ không có lực lượng tượng binh. Không những thế, người châu Âu lại còn khiếp sợ trước sức mạnh tượng binh của Ba Tư, Ả Rập, Ấn Độ… Trong văn học và nghệ thuật của mình, họ cố tình hạ thấp tượng binh của đối phương. Còn trong cờ của đối phương thì họ bỏ hẳn tượng binh.
4. Tượng cờ tướng (tượng kỳ) Trung Quốc (Xiangqi)

Quân tượng trong cờ Trung Quốc khá trung thành với quân tượng của cờ Chaturanga, cụ thể: gọi tên là tượng – âm và chữ (象) này trong tiếng Trung nghĩa là con voi, quy ước là tượng binh (dù Trung Quốc không có binh chủng này) và tượng vẫn được đi chéo đúng hai ô, nhưng lại bị cản.
Thêm nữa, tượng cờ tướng Trung Quốc không được đi qua hà (sông) sang phần đất của đối phương. Với những quy định mới này, tượng cờ tướng chỉ được đi hạn chế trong bảy vị trí (xem hình), không được tấn công mà chỉ có chức năng phòng thủ một cách hạn chế. Vì những luật chơi mới của cờ tướng Trung Quốc, mà quân tượng của loại cờ này (Xiangqi) là yếu nhất so với quân tượng của các loại cờ khác.
5. Tượng cờ Shogi (Nhật Bản)

Tượng cờ vua Nhật Bản – Shogi – có tên là Giác Hành và họ vẫn quy ước đó là voi, đại diện cho tượng binh, dù nước Nhật Bản cũng không có loài voi. Trong từ ghép “giác hành”, thì từ đơn “giác” có nghĩa là góc, từ đơn “hành” có nghĩa là đi. Vậy nên rất đơn giản từ ghép “giác hành” hiểu là đi chéo, tức đây là quân cờ đi chéo, rất trực quan. Đây là việc lấy tính từ làm danh từ.
Tượng cờ Shogi kế thừa từ tượng cờ vua (chess) hơn là cờ tướng (xiangqi), vì nó được đi chéo dài bất kỳ cho đến khi gặp quân cản và cũng được đi khắp bàn cờ. Tuy nhiên, cờ Shogi lại chỉ có một quân tượng và với vị trí ban đầu của nó, thì quân tượng này chỉ đi được 41 – trên tổng 81 ô cờ của bàn cờ Shogi. Tức là có những (40) ô cờ trên bàn cờ Shogi mà không bao giờ quân tượng đi tới.
6. Tượng cờ Lạc Việt (coViet)

Tác giả cờ Việt đưa ra nước đi của quân tượng dựa trên căn cứ mô tả sức mạnh của tượng binh trên chiến trường. Tượng binh (voi chiến) là một binh chủng trọng yếu trong cơ cấu quân đội của người Việt Nam ở các triều đại phong kiến. Đây là lực lượng hết sức quan trọng trong các cuộc chiến tranh giữ nước của Việt Nam.
Sức mạnh của tượng binh của người Việt Nam là sự tổng hợp sức mạnh của voi chiến dùng vòi, ngà và chân đế tấn công quân địch cùng với sức mạnh của các binh sĩ cưỡi trên lưng voi lao giáo, bắn cung xuống kẻ địch. Chính vì thế tượng binh trong lịch sử Việt Nam là lực lượng có sức mạnh khủng khiếp, gây khiếp đảm cho quân thù trong nhiều triều đại, nhất là quân đội của các nước phương Bắc xâm lược như Trung Quốc, Mông Cổ. Họ không có voi chiến để đánh trả.
Ngoài chiến đấu, voi còn rất đắc dụng trong các nhiệm vụ khác như hậu cần, vận chuyển quân lương, nhu yếu phẩm, vũ khí, thuốc men… Tuy nhiên, về cơ bản chức năng lớn nhất của tượng binh là răn đe khiến kẻ thù khiếp sợ. Tiếp đó là phá rào lũy và phá tan đội hình quân địch khi chiến đấu. Đặc biệt, vua Quang Trung còn nâng tượng binh lên một tầm cao mới, khi đặt pháo thần công trên lưng voi bắn vào quân thù (nhà Thanh) khiến chúng kinh hoàng và kiếp đảm.




